GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
HỒ SƠ MÔN HỌC TƯ TƯỞNG CANH TÂN Ở VIỆT NAM (CUỐI TK XIX - ĐẦU TK XX)
Thứ Bảy, 13 tháng 1, 2018
Thứ Tư, 1 tháng 2, 2017
Nhật bản và cải cách Minh trị (1866) trong nhận thức của Nguyễn Trường Tộ
NGUYỄN TIẾN DŨNG
Thứ
tư, 18 Tháng 11 2009 08:05
font
size giảm kích thước chữ tăng kích thước chữ
Trong
chuyên khảo nổi tiếng Tại sao Nhật Bản “thành công”? Công nghệ phương Tây và
tính cách Nhật Bản, học giả Michio Morishima có những nhận xét độc đáo về cải
cách Minh Trị: “Ở một mức độ đáng kể, tôi hiểu Cách mạng Minh Trị khác với đa số
các sử gia Nhật Bản, nhưng lại giống nhiều với các sử gia phương Tây, mặc dù trọng
tâm của sự luận giải có khác nhau. Ở một chừng mực nào đó, các quan điểm được
chấp nhận rộng rãi ở Nhật Bản đi theo học thuyết lịch sử Mác, nhưng theo tôi, lịch
sử Nhật Bản cận đại quá độc đáo nên khó có thể giải thích được một cách thích hợp
bằng học thuyết Mác-xit”[1].
Với
cái nhìn so sánh, PGS. TS. Nguyễn Văn Kim cũng chia sẻ thêm: “đặt trong bối cảnh
lịch sử châu Á thời bấy giờ, cải cách Minh Trị, với những thành công của nó, có
thể coi là một hiện tượng dị biệt, là mẫu hình tiêu biểu của phong trào cải
cách châu Á những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX”[2]. Điều đó lý giải vì sao
khi luận giải về cải cách Minh Trị của Nhật Bản và sự thành công của cuộc cải
cách đó bên cạnh những quan điểm, vấn đề có ý kiến tương đối thống nhất đã có
không ít những nhận định, đánh giá tương đối khác nhau của các thế hệ, các lớp
người… về cuộc cải cách này.
Là
một trí thức yêu nước, luôn trăn trở với sự nghiệp canh tân, tự cường đất nước
và là người sống cùng thời điểm cuộc cải cách này diễn ra, Nguyễn Trường Tộ có
những nhận thức tương đối sâu sắc, xác thực về cải cách Minh Trị trong sự liên
tưởng, đối sánh với Việt Nam cũng như các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Những nhận thức và tư tưởng canh tân đó được được thể hiện rõ nét qua các di thảo
của ông.
1.
Cải cách Minh Trị trong bối cảnh khu vực và quốc tế nửa cuối thế kỷ XIX
Như chúng ta đã biết, sau khi các cuộc
cách mạng tư sản diễn ra ở Hà Lan, Anh và nhiều nước châu Âu khác, chủ nghĩa tư
bản với tư cách là một hình thái kính tế xã hội mới đã xuất hiện và bắt đầu có
những tác động to lớn đến đời sống chính trị và kinh tế thế giới. Nhờ có nền sản
xuất công nghiệp và việc ứng dụng thành tựu kỹ thuật tiên tiến mà năng suất lao
động trong trong các nước tư bản đã tăng cao. Sau các cuộc phát kiến địa lý lớn
diễn ra vào cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, một số cường quốc châu Âu mà tiêu biểu
là Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh, Hà Lan, Pháp… đã ra sức tìm đường đến phương
Đông và nhiều vùng đất khác trên thế giới tìm kiếm thị trường, tiến hành hoạt động
buôn bán và vơ vét tài nguyên thiên nhiên. Lợi nhuận thu được từ các quốc gia
phương Đông trong các thế kỷ XVI-XVII đã góp phần quan trọng tạo ra nguồn tích
lũy vốn nguyên thủy cho quá trình công nghiệp hóa và phát triển ban đầu của chủ
nghĩa tư bản.
Trong quá trình mở rộng ảnh hưởng và
bành trướng đó, đến thế kỷ XIX, các quốc gia tư bản sau một thời kỳ phát triển
trong điều kiện tự do cạnh tranh đã chuyển dần sang thời kỳ đế quốc chủ nghĩa.
Bằng nhiều cách và mức độ khác nhau, các dân tộc châu Á và nhiều quốc gia trên
thế giới đã từng bước trở thành thuộc địa và phụ thuộc nặng nề về kinh tế,
chính trị vào các nước tư bản phương Tây. Vào cuối thế kỷ XIX, trong quá trình
bành trướng mạnh mẽ của chủ nghĩa thực dân, các nước tư bản Anh, Pháp, Đức,
Nga, Mỹ đã dần dần nổi lên như những cường quốc trên thế giới. Theo đó, năm
1881, Pháp đã thiết lập chế độ bảo hộ ở Tunis, năm 1882, Anh chiếm Ai Cập, năm
1883, Đức bắt đầu tham gia giành đất thuộc địa ở Tây - Nam Phi. Trong các năm
1884 - 1885, Pháp và Anh tiến mạnh đến khu vực Đông Dương và Miến Điện
(Myanmar) năm 1889 các nước Đức, Anh và Mỹ chiếm vương quốc Samoan và phân chia
nước này thành ba vùng cộng trị[3]. Như vậy, đến giữa thập kỷ 90 của thế kỷ
XIX, phần lớn khu vực Trung Đông, châu Phi, châu Á Thái Bình Dương đều lần lượt
rơi vào tay các cường quốc thực dân. Ở Đông Bắc Á, cho đến giữa thế kỷ XIX, các
nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên cũng bắt đầu bị cơn lốc của chủ nghĩa
thực dân tràn tới.
Là một quốc gia có vị trí chiến lược ở
khu vực Đông Bắc Á, lại từng là một trung tâm kinh tế lớn của châu Á trong các
thế kỷ XVI-XVIII, đến thế kỷ XIX, Nhật Bản trở thành đối tượng chinh phục của
nhiều nước tư bản Âu - Mỹ. Từ đầu thế kỷ XIX, nhiều tàu buôn và chiến hạm của
Nga, Hà Lan, Anh và Mỹ… đã đến Nhật Bản, yêu cầu chính quyền Edo từ bỏ chính
sách tỏa quốc (sakoku) để mở cửa thông thương với thế giới bên ngoài[4].
Nguyễn Trường Tộ (1830[5]-1871) vốn
xuất thân trong một gia đình Công giáo, nhưng là người học thông Tứ thư, Ngũ
kinh của đạo Nho, lại có điều kiện trải nghiệm thực tế, học tập và tiếp xúc với
nền văn minh của nhiều nước phương Đông và phương Tây như Hương Cảng,
Singapore, Romas, Thụy Sĩ và Pháp. Chính từ vốn học vấn uyên thâm kết hợp với
những trải nghiệm quý báu của bản thân, đã tạo cho ông nhãn quan sắc bén cũng
như tầm nhìn sâu rộng với nhiều nhận thức vượt thời đại. Trong bối cảnh và
khuynh hướng vận động chung của thế giới thời bấy giờ, Nguyễn Trường Tộ có những
nhận định sâu sắc và xác thực: “Ngày nay các nước phương Tây đã bao chiếm suốt
từ Tây Nam cho đến Đông Bắc, toàn lãnh thổ châu Phi cho tới Thiên Phương, Thiên
Trúc, Miến Điện, Xiêm La, Tô Môn Đáp Lạp, Trảo Oa, Lữ Tống, Cao Ly, Nhật Bản,
Trung Quốc và các đảo ở ngoài biển, kể cả Tây châu, không đâu là không bị chẹn
họng bám lưng. Nước Nga thì từ Tây Bắc đến Đông Nam gồm tất cả các nước Đại Uyển,
Cốt Lợi Cán, Mông Cổ và các xứ ở Bắc Mãn Châu, không đâu là không chiếm đất và
nô dịch dân những nơi đó. Ở trên lục địa, tất cả những chỗ nào có xe thuyền đi
đến, con người đi qua, mặt trời, mặt trăng soi chiếu, sương mù thấm đọng thì
người Âu đều đặt chân đến, như tằm ăn cá nuốt, ở đâu thuận với họ thì phúc, chỗ
nào trái với họ thì họa; ai hòa với họ thì được yên, ai cự lại thì dùng binh lực
giao tranh; trong thiên hạ không ai dám kháng cự lại họ”[6].
Ông còn phân tích thêm: “Trước đây
trong bài Lục Lợi từ tôi đã bẩm rằng cái kế mưu sinh của phương Tây, quá nửa do
đoạt lấy từ nước ngoài… Phương pháp họ dùng để đoạt lấy, chủ yếu là ở xen lộn
và thông thương buôn bán. Nếu sơ đầu mà không đạt được yêu cầu, họ sẽ không chiếm
đất đai để làm chỗ bảo vệ việc thông thương buôn bán của họ. Nếu được ngay
không có gì trở ngại, có thể cư ngụ yên ổn, họ không cần cưỡng bức chiếm cắt
(Không phải bản tâm họ không muốn chiếm cắt, nhưng mới đầu, thế buộc phải làm
như vậy). Trước tiên họ chỉ tiến hành thiết lập các phố buôn để tiện cư trú
buôn bán mà thôi. Như gần đây bọn chúng đã làm ở Nhật Bản, Trung Quốc, Xiêm La
vậy. Ý họ cho rằng nếu tranh chấp sớm kết oán càng sâu”[7].
Như vậy, trước sự xâm nhập và bành
trướng ngày càng sâu rộng, với cường độ ngày càng gia tăng của các quốc gia tư
bản phương Tây, điều tất yếu là các quốc gia phương Đông phải đứng lên bảo vệ
chủ quyền dân tộc và giữ gìn những nguồn tài nguyên của đất nước mình. Mỗi quốc
gia phương Đông có những tiềm lực và điều kiện khác nhau, cho nên giữa họ cũng
có những khuynh hướng tự vệ khác nhau. Dù đấu tranh theo hình thức nào thì cuối
cùng các quốc gia phương Đông hoặc phải đứng lên đấu tranh bằng vũ trang hoặc lựa
chọn con đường cải cách, duy tân tiến tới tự cường đất nước. Tuy cách thức có
khác nhau nhưng cả hai con đường đó đều có mục tiêu chung là bảo vệ nền độc lập,
chủ quyền dân tộc.
Là
quốc gia tiêu biểu ở châu Á tiến hành thành công cải cách đất nước, giới lãnh đạo
phong trào cải cách ở Nhật Bản đã có những nhận thức đúng, kịp thời và vận dụng
có hiệu quả thuyết thế và thời trong triết luận phương Đông vào công cuộc “phú
quốc cường binh”, hơn thế họ còn vượt qua được “định mệnh” của lịch sử, bảo vệ được
chủ quyền lãnh thổ, sánh vai cùng đội ngũ liệt cường thế giới. Đúng như trí sĩ
Nguyễn Trường Tộ từng nhận xét về bối cảnh thế giới và hiện trạng của Nhật Bản
cũng như một số quốc gia khác thời bấy giờ: “Theo phép liên hoành và cân bằng
thế lực trên thế giới mà cái gương thành công thất bại gần ta nhất như nguyên
do Ấn Độ mất toàn lãnh thổ, Miến Điện bỏ một nửa đất đai, Xiêm La, Nhật Bản,
Trung Quốc được lợi lớn, có thể thấy được đại khái là do không biết thời thế.
Không biết thời thế thì tri thức câu chấp, tâm tính hẹp hòi”[8].
2. Nhận thức của Nguyễn Trường Tộ về
Nhật Bản
Hiện nay, nghiên cứu về cải cách Minh
Trị của Nhật Bản nói riêng[9] cũng như những nghiên cứu về con người Nguyễn Trường
Tộ và tư tưởng canh tân đất nước của ông[10] đã thu hút nhiều nhà khoa học
trong và ngoài nước, nhưng nghiên cứu về đề tài Nhật Bản và cải cách Minh Trị của
Nhật Bản trong nhận thức của Nguyễn Trường Tộ chưa thật sự được chú ý. Từ thực
tế lịch sử cho thấy, với vốn kiến thức thực tế phong phú và tầm hiểu biết uyên
thâm của mình, Nguyễn Trường Tộ có những nhìn nhận, kiến giải khá sâu sắc và có
tính hệ thống về Nhật Bản trước, trong và ngay sau cải cách Minh Trị[11].
Là người có điều kiện đi qua và tiếp
xúc với nhiều nước châu Á cũng như châu Âu, điều hiển nhiên là Nguyễn Trường Tộ
đã tự trang bị cho mình một tầm kiến văn phong phú, sâu sắc về thế giới. Trên
cơ sở đó, ông đã đưa ra quan điểm về những khuynh hướng vận động của thời đại.
Ông đã nhận định về vị thế và tình thế của Nhật Bản trong “thân phận” của nó với
tư cách là quốc gia láng giềng của nước Nga: “Lại như các lớn thuộc phía Bắc nước
Nhật và Mông Cổ Ngoại Minh giáp với Triều Tiên đều đã nhập hết vào bản đồ nước
Nga”[12]. Như vậy, trong xu thế bành trướng, xâm lược mạnh mẽ của các đế quốc
châu Âu nhìn chung các dân tộc “nhỏ yếu” phương Đông đều phải gánh chịu chung một
số phận. Ông cho rằng: “Ấn Độ đã thuộc Anh không phải bàn nữa. Miến Điện và
Xiêm La là thân cá chậu. Còn lại nước ta và Nhật Bản coi như đô thị lớn của
vùng Biển Đông, Triều Tiên bên cạnh như một cái phố nhỏ chỉ đủ cho bọn chúng điểm
tâm buổi sáng, chẳng quan trọng gì. Nhật Bản tuy cứng mạnh, hung hãn, nhưng các
tiểu hầu phân chiếm từng mảnh, ý chí sức lực không đều nhau, trở ngại cho việc
tiếp ứng. Hơn nữa nước này bốn mặt bể bao bọc, chẳng có hàng xóm láng giềng với
ai, rốt cuộc cúng khó tranh hơn với các địch thủ lớn, chuyên vẫy vùng trên biển…
Hợp Chúng Quốc xưa nay đối với thế giới có tiếng là “Ông già hòa bình” nhưng
nay họ phải bỏ đường lối ấy. Họ lại thấy Nga và Pháp sắp rửa áo giáp ở Thái
Bình Dương thì lý nào họ lại ngồi yên để xem miếng mồi ấy lọt vào tay ai. Chắc
chắn họ cũng sẽ hươi gươm vác súng vào cái chợ lớn Trung Quốc mà đánh chén với
các nước phương Tây. Còn nước ta và Nhật Bản như là hai con đường lớn của hai đầu
chợ ấy, chắc chắn sẽ là nơi bọn chúng buông gánh nghỉ vai. Điều đó sớm muộn sẽ
xảy ra không sao tránh khỏi”[13]. Như vậy, trong nhận thức của Nguyễn Trường Tộ,
thế giới phương Đông rộng lớn hiện ra và có đầy sức hấp dẫn với thế giới tư bản
phương Tây. Dù sớm hay muộn, các quốc gia phướng Đông đều trở thành miếng mồi
béo bở để các thế lực tư bản phương Tây xâu xé, xâm chiếm. Nhật Bản là quốc gia
có vị trí chiến lược quan trọng, điều tất yếu là dân tộc này cũng khó nằm ngoài
âm mưu thôn tính của các nước thực dân. Trước trào lưu xâm lược của thế giới tư
bản phương Tây, theo Nguyễn Trường Tộ, Nhật Bản đã lựa chọn cho mình con đường
tự vệ đúng đắn và cách ứng xử khôn khéo đó là tích cực học tập phương Tây, tiến
tới tự cường dân tộc.
Trong bối cảnh quốc tế giữa thế kỷ
XIX, để lựa chọn cho mình con đường đấu tranh phù hợp, điều tiên quyết là mỗi
quôc gia ở châu Á phải tự nhận thức vị trí của mình trên bàn cờ chính trị khu vực
cũng như điều kiện thực tế, tiềm lực vốn có của mình. Quan điểm đó gắn với năng
lực tự thân, tố chất và khả năng thích ứng của chính mỗi quốc gia. Trong quá
trình vận động cải cách, người Nhật đã từng bước nhận thức đúng con đường cải
cách và không ngừng phát triển, hoàn thiện con đường cải cách đó theo cách thức
của dân tộc mình. Theo ông, sở dĩ người Nhật có thể chuẩn bị để tiến tới một cuộc
thay đổi lớn là vì những phẩm chất tự nhiên mà họ có được. Theo đó: “Trên địa cầu,
có giống tốt phước, có giống vô phước. Đó là lẽ tiền định của tạo vật, nếu
không xét kỹ nguồn gốc trời, đất, người, vật, không thể nào hiểu thấu và tin tưởng
lẽ ấy được. Tuy nhiên, cứ xem các nước xưa nay cũng có thể hiểu biết rõ chuyện ấy
có thật. Giống tốt phước ở Đông Châu (Đông bán cầu của quả đất là Đông Châu,
Tây bán cầu là Tây Châu) như người phương Tây, người Ấn Độ, người Mông Cổ, người
Trung Quốc, người Nhật Bản và người nước ta. Những giống dân này mỗi ngày một
thịnh, mỗi thế kỷ tăng lên hai lần rưỡi”[14].
Không những vậy, trước bất kỳ một vấn
đề hệ trọng mang tính bước ngoặt của mỗi quốc gia, dân tộc, điều rất quan trọng
là cần có sự đồng lòng, hòa thuận từ trên xuống dưới và của quân - thần cũng
như vua - tôi. Đây không chỉ là cơ sở để mỗi quốc gia vượt qua khó khăn, thử
thách mà còn tạo dựng nên sự trường tồn, bền vững của mỗi dân tộc. Thực tế thì,
theo Nguyễn Trường Tộ: “Mọi quyền lực hành vi trong một nước phải do vua nắm,
và cùng với quốc dân chia sẻ nỗi vui buồn. Ngoài quy luật này ra đều là tội cả.
Tôi xem khắp các nước trong thiên hạ, hễ nước nào có một họ được bề tôi đời đời
giúp rập thì tuy có đôi khi suy vi nhưng trong nước cũng không đến nỗi có loạn
lớn. Như Nhật Bản đã mấy nghìn năm, Thổ Nhĩ Kỳ đã nghìn năm, các nước phương
Tây đều như thế cả, ở Nam Tây Châu cũng vậy. Sở dĩ dân ở đấy phần nhiều chỉ có
loạn nhỏ mà không có loạn lớn là vì danh nghĩa đã xác lập ngôi vị ổn định, nghe
thấy đã quen ít xảy ra việc đoán thoạn làm loạn”[15].
Và sự thống nhất ý chí của dân tộc Nhật
Bản thể hiện rõ nét trong việc kiên tâm học tập và ứng dụng khoa học kỹ thuật của
chính các quốc gia tư bản phương Tây. Điều này có nền tảng từ quan niệm thực học
truyền thống của người Nhật, chúng ta thấy rằng cùng quan niệm xây dựng một hệ
thống giáo dục đó là: “Trừ Trung Quốc, Nhật Bản, Cao Ly và nước ta ra không có
nước nào lấy văn chương để chọn nhân tài. Đó cũng vì thơ phú không đuổi được giặc,
nghìn lời không được một kế sách, cho nên thay đổi đi mà lấy những điều tạo hóa
hành sự làm cái học thực dụng, vì tạo vật là bậc thầy vĩ đại của muôn dân”[16].
Tuy nhiên, khi so sánh với Việt Nam, về bản chất của hệ thống giáo dục của Nhật
Bản, Nguyễn Trường Tộ cũng đã nhận thấy có nhiều điểm khác biệt: “Ngày nay
chúng ta, lúc nhỏ thì học văn, từ, thơ phú, lớn lên ra làm thì lại luật, lịch,
binh, hình. Lúc nhỏ nào học Sơn Đông, Sơn Tây mắt chưa từng thấy, lớn lên ra
làm thì đến Nam Kỳ, Bắc Kỳ. Lúc nhỏ học nào thiên văn , địa lý, chính sự, phong
tục tận bên Tàu (mà nay họ đã sửa đổi khác hết rồi), lớn lên ra làm thì dùng đến
địa lý, thiên văn, chính sự, phong tục của nước Nam, hoàn toàn khác hẳn. Lúc nhỏ
học những lễ nhạc, cách ăn uống, cư xử chiến đấu, doanh trại từ xa xưa của Tàu,
lớn lên ra làm thì phải dùng lễ nhạc, cách chiến đấu, phép ăn ở theo quan dân
nước ta ngày nay. Còn biết bao nhiêu những việc tương tự như thế, mòn bút khô
môi cũng không kể hết. Xưa nay các nước trên thế giới chưa từng nước nào có nền
học thuật như vậy. Quả thật lạ đời! Tuy Nhật Bản, Cao Ly cũng đọc sách Tàu
nhưng chỉ để làm vui (Phải đọc sách của nước họ mới biết sự thật. Nếu xem sách
Nho thì bao giờ cũng thấy nói khắp thiên hạ đều học theo phép Nho của mình cả.
Đó chỉ là nói để khoe tốt, không đủ tin). Còn ra thì làm theo sách của nước họ,
công việc của nước họ, chưa bao giờ thấy họ học và dùng những gì mà mắt không
trông thấy, chân không đặt đến như lối học của nước ta”[17]. Và trước nguy cơ bị
thực dân phương Tây nhòm ngó, Nhật Bản đã lựa chọn học tập kỹ nghệ của chính
các nước phương Tây, đê tự cường đất nước: “Nhật Bản và Trung Quốc dần dần đã
rõ cơ hội đó, nên Nhật Bản đã cho nhiều người sang các nước phương Tây du học,
đồng thời để dò xét tình hình. Hiện có một hoàng tử và 35 người cùng đi với một
linh mục mới đến Ba Lê (tức Paris - TG) và đã thiết lập ở đó một Đại học xã để
phái người sang học”[18].
Không chỉ mời các chuyên gia nước
ngoài về Nhật giảng dạy và tạo dựng cơ sở vật chất, việc cử chuyên gia sang nước
ngoài học tập là hoạt động diễn ra liên tục và thường xuyên. Nhật Bản đã học tập
kỹ nghệ phương Tây phong phú và trên nhiều phương diện, các di thảo của Nguyễn
Trường Tộ cho biết: “Hiện nay Nhật Bản, Miến Điện cũng đã phái người đến kinh
đô nước Pháp học kỹ nghệ. Đến như nước Nga ở phương Tây mà cũng cho người đến
nước Anh, nước Pháp học tập. Tuy phải dụng công lâu dài, dụng công rất lớn,
nhưng cũng thu hoạch được nhiều. Vì rằng muốn thành đại sự phải mất hàng trăm
năm chứ đâu phải một ngày mà được. Cho nên người quân tử lo toan mọi việc chẳng
những ở đời mình mà cho con cháu nữa”[19]. Từ đó tác giả liên hệ: “Tôi thiết
nghĩ rằng tuy là người ngoài hội, nhưng đã làm việc cho người nước ngoài nhiều
như hiện nay người nước Nhật Bản cũng mời họ (tức người Pháp - TG) đến mở xưởng
đóng thuyền, theo những phương pháp mới. Trung Quốc, Xiêm La, Miến Điện cũng vậy”[20];
“Mỗi ngày xưởng (xưởng chế tạo súng hỏa mai ở ngoại ô Ba Lê, tức Paris ngày
nay, - TG) có thể sản xuất mười vạn cây súng. Công nhân trên ba trăm (Người Nhật
hiện đến mua của xưởng một trăm vạn cây súng, mua các giàn máy và thuê hai công
nhân về Nhật Bản lập xưởng)”[21]; “Ở đấy có một vị công tử đứng đầu hội (hội ở
đây chính là xưởng đào mỏ đúc sắt – TG), y là con một ông quan lớn nhất trong
Viện Thứ Dân (ông này là Viện trưởng Viện Thứ Dân, như Tể tướng). Chúng tôi đã ở
nhà công tử ấy một tuần và có nói chuyện nhiều với công tử rằng nước ta vốn muốn
cộng tác với nước Pháp để được thịnh lợi chung, y rất thích. Tôi cũng nói với y
rằng khi về nước sẽ đem hết những gì cơ xưởng của y có bẩm lên Triều đình để biết
sau này có mua sắm gì sẽ nhờ y liệu biện cho, như Nhật Bản, Xiêm La vậy”[22];
“Vả lại, nếu muốn tìm các thứ máy móc theo kiểu mới thì khắp nước Pháp, không
đâu hơn ở đây. Nếu các quan ta đi đến đây đính ước sự mua bán về sau như Nhật,
có gì mà không được?”[23].
Như vậy, những hoạt động tích cực
trên đây của Nhật Bản tạo tiền đề quan trọng để Nhật Bản tiến hành thành công cải
cách Minh Trị, đây không chỉ là kết quả của sự thích ứng với bối cảnh lịch sử mới
của quốc gia này, mà còn là thành quả kế thừa từ thời kỳ Tokugawa (1600-1868).
Thực tế thì, “trải qua 267 năm tồn tại và phát triển, chế độ phong kiến
Tokugawa mặc dù không tránh khỏi những hạn chế lịch sử, nhưng từ trong lòng xã
hội phong kiến, nhiều nhân tố kinh tế - xã hội mới đã nảy sinh. Các nhân tố
kinh tế - xã hội đó đã tạo nên tiền đề và động lực hết sức quan trọng để Nhật Bản
có thể tiến hành cuộc cải cách xã hội rộng lớn đồng thời bảo đảm những cơ sở cần
thiết cho sự tồn tại và phát triển của một nhà nước tư sản đầu tiên ở châu
Á”[24].
Kết quả là, Nhật Bản đã bước đầu tiến
hành thành công cải cách Minh Trị, điều này không chỉ giúp Nhật Bản thoát khỏi
vanh nuốt đô hộ của các nước phướng Tây, mà quốc gia này còn thành công trong
việc thực hiện mục tiêu cơ bản của mình là xây dựng đất nước trở thành “phú quốc
cường binh”. Theo nhìn nhận của Nguyễn Trường Tộ: “Lại xem Nhật Bản xưa vốn là
lũ người lùn, từ trung diệp nhà Minh mới bắt đầu giao hảo với Hà Lan, làm bạn với
Bồ Đào Nha, kế đến mời Hợp Chúng Quốc giúp vào việc nước, mở mắt nhìn rộng rãi
thiên hạ mới có chí hướng lớn như vậy. Từ đó họ đóng tàu bè, luyện tập võ bị,
ưu tiên phát triển thương nghiệp, công nghiệp, đất nước mỗi ngày một mạnh, được
khen với mỹ danh là Tiểu Tây và Trung Quốc khó bắt được Nhật Bản phải thần phục.
Tuy gần đây Anh, Pháp thường hay quấy nhiễu nhưng nhờ có nền nội trị ngoại giao
vững vàng mà họ không chịu hạ mình. Như trước đây ba năm Anh, Pháp đem binh thuyền
đến toan đàn áp, nhưng nhờ có Hợp Chúng Quốc, Hà Lan phân giải mà việc đã không
xảy ra. Đó không phải là công dụng của sự giúp đỡ của các nước hay sao? Còn như
ngày nay nước ấy có những kế hoạch giao thiệp rộng rãi, những mưu cơ tân tiến
thì đâu đâu người ta cũng đã nghe thấy rõ rang, gương ấy không xa, không cần phải
nêu ra nữa”[25].
Sự thành công ban đầu của công cuộc cải
cách của Nhật Bản được trí sĩ Nguyễn Trường Tộ luận giải và nhận thức trong một
logic nhất quán: “Tôi xem khắp thiên hạ từ xưa đến nay, các nước sở dĩ bảo tồn
được dài lâu, không nước nào không do hai điều kiện là giàu và mạnh. Mà sở dĩ
được giàu mạnh thì không thể không bắt đầu bằng việc mở rộng đất đai làm đông
dân chúng, thông thương qua lại và giao du với các nước. Sau đó lấy nhân nghĩa
công bằng mà qua lại với các nước làm cho mình và người cả hai đều được lợi,
thì mới đạt được sở nguyện. Đó là đường lối thông thường mà tất cả các nước
trên thế giới hiện nay đều tiến hành như thế, tập tành ham chuộng đường lối ấy,
tìm cách thực hành đường lối ấy, mấy trăm năm càng ra làm càng có lợi mà không
ai nghỉ tay, cũng vì bỏ đường lối này không còn phương sách nào khác”[26].
3. Một số nhận xét
Mặc dù là người đi khá nhiều quốc gia
trên thế giới, bao gồm cả một số quốc gia ở phương Đông cũng như phương Tây,
nhưng Nguyễn Trường Tộ vẫn chưa một lần có điều kiện đặt chân đến Nhật Bản. Tuy
nhiên, trong tổng số 58 di thảo của mình, địa danh Nhật Bản được Nguyễn Trường
Tộ đề cập đến 23 lần, với những nhìn nhận đánh giá khá sâu sắc và tương đối xác
thực so với tư liệu và nguồn tri thức chúng ta có thể tiếp nhận được ngày nay.
Điều này vừa cho thấy vốn kiến thức uyên thâm của cá nhân ông nhưng đồng thời
cũng thể hiện khả năng nắm bắt và truyền tải thông tin tương đối chính xác thời
bấy giờ. Nhật Bản hiện lên rõ nét trong nhận thức của Nguyễn Trường Tộ trước,
trong, sau cải cách Minh Trị.
Đêm trước của cải cách Minh Trị năm
1868, với vị trí địa chiến lược quan trọng, cũng như nhiều quốc gia khác ở
phương Đông, Nhật Bản phải đối diện với âm mưu xâm lược bành trướng của thực
dân phương Tây. Bằng ngòi bút sắc sảo và khả năng phân tích sắc bén của mình,
Nguyễn Trường Tộ nhìn nhận người Nhật, dân tộc Nhật với tiềm lực và khả năng của
bản thân đã quyết tâm hướng dân tộc dến sự lựa chọn cách thức học tập phương
Tây với một nội dung phong phú, đa dạng, nhằm mau chóng đưa Nhật Bản thành một
quốc gia cường thịnh. Đó là một sự lựa chọn hết sức khôn ngoan và đúng đắn. Mặc
dù, trong toàn bộ di thảo của Nguyễn Trường Tộ, chúng ta chưa thấy ông viết nhiều
về sự vận động bên trong của phong trào cải cách, phân tích kỹ những đặc tính của
một cuộc vận động cải cách đang diễn ra… song thông qua những trang viết ông
luôn nhấn mạnh đến tinh thần, ý chí, quyết tâm, năng lực học tập, tính cầu thị
của người Nhật. Theo ông đó là tấm gương hữu ích, thực tế, cần phải học tập.
Từ một quốc gia có nguy cơ bị biến
thành dân tộc nô lệ như nhiều nước khác ở Đông Á, sự thành công của cải cách
Minh Trị khiến Nhật Bản có thể phát triển nền công nghiệp, thương nghiệp, từng
bước trở thành một đất nước giàu mạnh. Cùng với chính sách ngoại giao mềm dẻo,
khôn khéo, biết lựa chọn những bước đi thích hợp, (vốn là đặc tính của xã hội
thương nghiệp, lối tư duy giàu lý trí của xã hội võ sĩ…), Nhật Bản đã sớm duy
trì được sự cân bằng quyền lực với các thế lực thực dân phương Tây để bảo vệ chủ
quyền dân tộc cùng lợi ích quốc gia. Nhận thức về Nhật Bản, về một đất nước có
cùng bối cảnh, cùng tình thế, nhận thức của Nguyễn Trường Tộ luôn có những liên
hệ và đặt trong tương quan so sánh với tình thế của Việt Nam. Tấm gương Nhật Bản
được ông đưa vào trong các trang điều trần với nội dung đa diện, đa chiều và
tâm thức tích cực nhưng qua đó cũng thể hiện không ít những cảm quan, thiên kiến
của mộtnhà cải cách, một trí thức yếu nướcsống giữa cuộc chuyển giao lớn của
dân tộc và thời đại.
[1]Michio
Morishima, Tại sao Nhật Bản “thành công”? Công nghệ phương Tây và tính cách Nhật
Bản, Nxb. Khoa học Xã hội, H., 1991, tr.75.
[2]Nguyễn
Văn Kim, Cải cách Minh Trị ở Nhật Bản (1868-1912); trong: Vũ Dương Ninh (Cb),
Phong trào cải cách ở một số nước Đông Á giữa thế kỷ XIX- đầu thế kỷ XX, Nxb. Đại
học Quốc gia Hà Nội, H., 2007, tr.50 -51.
[3]Marius
B. Jasen (Ed), The Cambridge History of Japan, Vol. V, Cambridge University,
1973, p.747.
[4]Xin
xem thêm: Nguyễn Văn Kim, Cải cách Minh Trị ở Nhật Bản (1868-1912), trong: Vũ
Dương Ninh (Cb), Phong trào cải cách ở một số nước Đông Á giữa thế kỷ XIX - đầu
thế kỷ XX, Sđd, tr. 50-161.
[5]Từ
đầu thế kỷ XX, một số trí thức cho rằng Nguyễn Trường Tộ sinh năm 1828, chúng
tôi chọn năm 1830 theo như nguồn tài liệu cung cấp của ông Nguyễn Trường Cửu
(trong Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ) - Con trai của Nguyễn Trường Tộ.
[6]Nguyễn
Trường Tộ, Thiên hạ đại thế luận, Di thảo số 1, tháng 3 – 4 năm 1863, in trong
Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ: Con người và di thảo, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh, 1988, tr. 107. Toàn bộ di thảo của Nguyễn Trường Tộ dùng trong bài viết
này, chúng tôi sử dụng trong công trình tập hợp và biên dịch của nhà nghiên cứu
Trương Bá Cần.
[7]Nguyễn
Trường Tộ, Bàn về việc cho Pháp thông thương để đổi lại sáu tỉnh, Di thảo số
41, ngày 30 tháng 3 năm 1871, Sđd, tr.333.
[8]Nguyễn
Trường Tộ, Bàn về việc cho Pháp thông thương để đổi lại sáu tỉnh, Di thảo số
41, ngày 30 tháng 3 năm 1871, Sđd, tr.333.
[9]Về
cải cách Minh Trị của Nhật Bản, xin xem thêm: R. H. P Mason & J. G. Caiger,
Lịch sử Nhật Bản, Nguyễn Văn Sĩ dịch, Nxb. Lao Động, H., 2003, tr.294-354;
Fukuzawa Yukichi, Nhật Bản cách tân giáo dục thời Minh Trị, Nxb Chính trị Quốc
gia, H., 1995; Michio Morishima, Tại sao Nhật Bản “thành công”? công nghệ
phương Tây và tính cách Nhật Bản, Nxb Khoa học xã hội, H. 1991, tr. 75 - 117;
Nguyễn Văn Kim, Cải cách Minh Trị ở Nhật Bản (1868-1912), Sđd, 50-161; Nguyễn
Văn Kim, Vai trò của các tozama daimyo trong tiến trình cải cách ở Nhật Bản thế
kỷ XIX (Những vấn đề khoa học đang đặt ra), in trong Nhật Bản với châu Á những
mối liên hệ lịch sử và chuyển biến kinh tế - xã hội, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội,
H., 2003, tr.449- 478; Đặng Xuân Kháng, Một số tư tưởng chủ đạo của cải cách
giáo dục Nhật Bản thời Minh Trị duy tân, trong: Đông Á - Đông Nam Á những vấn đề
lịch sử và hiện tại, Nxb. Thế giới, H., 2004, tr.179-188…
[10]Về
Nguyễn Trường Tộ và những tư tưởng canh tân đất nước của ông, xin xem thêm:
Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ: Con người và di thảo, Sđd; Hoàng Thanh Đạm,
Nguyễn Trường Tộ: Thời thế và tư duy cách tân, Nxb. Văn nghệ Thành phố Hồ Chí
Minh, 2001; Đinh Xuân Lâm – Nguyễn Văn Hồng, Xu hướng đổi mới trong lịch sử Việt
Nam, Nxb. Văn hóa thông tin, H., 1998; Đỗ Bang - Trần Bạch Đằng - Đinh Xuân Lâm
- Hoàng Văn Lân - Lưu Anh Rô - Nguyễn Quang Trung Tiến - Nguyễn Trọng Văn, Tư
tưởng canh tân đất nước dưới triều Nguyễn, Nxb. Thuận Hóa, 1999…
[11]Khi
khảo sát tuyển tập công trình của Trương Bá Cần, chúng tôi nhận thấy trong toàn
bộ 58 di thảo của Nguyễn Trường Tộ, danh từ Nhật Bản xuất hiện tổng số là 23 lần,
tại 13 di thảo gồm di thảo số 1, 2, 4, 7, 13, 18, 26, 27, 35, 38, 41, 50, 55.
[12]Nguyễn
Trường Tộ, Tám việc cần làm gấp (Tế cấp bát điều), Di thảo số 27, ngày 15 tháng
11 năm 1867, Sđd, tr. 227.
[13]Nguyễn
Trường Tộ, Tám việc cần làm gấp (Tế cấp bát điều), Di thảo số 27, ngày 15-11-1867,
Sđd, tr. 229.
[14]Nguyễn
Trường Tộ, Tám việc cần làm gấp (Tế cấp bát điều), Di thảo số 27, ngày
15-11-1867, Sđd, tr.268.
[15]Nguyễn
Trường Tộ, Ngôi vua là quí, chức quan là trọng. Tháng 5-1866, di thảo số 13,
Sđd, tr.15
[16]Nguyễn
Trường Tộ, Về việc học thực dụng, tr.192. Ngày 1-9-1866, di thảo số 18, Sđd,
tr.192.
[17]Nguyễn
Trường Tộ, Tám việc cần làm gấp (Tế cấp bát điều), Di thảo số 27, ngày
15-11-1867, Sđd, tr.249.
[18]Nguyễn
Trường Tộ, Tám việc cần làm gấp (Tế cấp bát điều), Di thảo số 27, ngày
15-11-1867, Sđd, tr.229.
[19]Nguyễn
Trường Tộ, Về việc đào tạo người điều khiển và sửa chữa thuyền máy, tr.157-158,
di thảo số 7, tháng 2-1865, Sđd, tr.157-158.
[20]Nguyễn
Trường Tộ, Tờ trình về việc ký hợp đồng với hội nước ngoài, tr. 221, di thảo số
26, ngày 12 tháng 5 năm 1867, Sđd, tr. 221.
[21]Nguyễn
Trường Tộ, Tám việc cần làm gấp (Tế cấp bát điều), Di thảo số 27, ngày
15-11-1867, Sđd, tr.229.
[22]Nguyễn
Trường Tộ, Nói rõ thêm về văn bản 16 – 2 Tự Đức 21, di thảo số 35,ngày
15-3-1868, Sđd, tr.301.
[23]Nguyễn
Trường Tộ, Nói rõ thêm về văn bản 16 – 2 Tự Đức 21, di thảo số 35,ngày
15-3-1868, Sđd, tr.302.
[24]Nguyễn
Văn Kim, Chính sách đóng cửa của Nhật Bản thời kỳ Tokugawa: Nguyên nhân và hệ
quả, Nxb. Thế giới, H., 2000, tr.228.
[25]Nguyễn
Trường Tộ, Nên mở cửa chứ không nên khép kín, di thảo số 55,tháng 10-1871, Sđd,
tr.408-409.
[26]Nguyễn
Trường Tộ, Nên mở cửa chứ không nên khép kín, di thảo số 55,tháng 10-1871, Sđd,
tr.408.
https://vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/nhat-ban-va-cai-cach-minh-tri-1866-trong-nhan-thuc-cua-nguyen-truong-to
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)