Thứ Tư, 1 tháng 2, 2017

Nhật bản và cải cách Minh trị (1866) trong nhận thức của Nguyễn Trường Tộ


  NGUYỄN TIẾN DŨNG
Thứ tư, 18 Tháng 11 2009 08:05
font size  giảm kích thước chữ  tăng kích thước chữ
Trong chuyên khảo nổi tiếng Tại sao Nhật Bản “thành công”? Công nghệ phương Tây và tính cách Nhật Bản, học giả Michio Morishima có những nhận xét độc đáo về cải cách Minh Trị: “Ở một mức độ đáng kể, tôi hiểu Cách mạng Minh Trị khác với đa số các sử gia Nhật Bản, nhưng lại giống nhiều với các sử gia phương Tây, mặc dù trọng tâm của sự luận giải có khác nhau. Ở một chừng mực nào đó, các quan điểm được chấp nhận rộng rãi ở Nhật Bản đi theo học thuyết lịch sử Mác, nhưng theo tôi, lịch sử Nhật Bản cận đại quá độc đáo nên khó có thể giải thích được một cách thích hợp bằng học thuyết Mác-xit”[1].


Với cái nhìn so sánh, PGS. TS. Nguyễn Văn Kim cũng chia sẻ thêm: “đặt trong bối cảnh lịch sử châu Á thời bấy giờ, cải cách Minh Trị, với những thành công của nó, có thể coi là một hiện tượng dị biệt, là mẫu hình tiêu biểu của phong trào cải cách châu Á những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX”[2]. Điều đó lý giải vì sao khi luận giải về cải cách Minh Trị của Nhật Bản và sự thành công của cuộc cải cách đó bên cạnh những quan điểm, vấn đề có ý kiến tương đối thống nhất đã có không ít những nhận định, đánh giá tương đối khác nhau của các thế hệ, các lớp người… về cuộc cải cách này.

Là một trí thức yêu nước, luôn trăn trở với sự nghiệp canh tân, tự cường đất nước và là người sống cùng thời điểm cuộc cải cách này diễn ra, Nguyễn Trường Tộ có những nhận thức tương đối sâu sắc, xác thực về cải cách Minh Trị trong sự liên tưởng, đối sánh với Việt Nam cũng như các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Những nhận thức và tư tưởng canh tân đó được được thể hiện rõ nét qua các di thảo của ông.

1. Cải cách Minh Trị trong bối cảnh khu vực và quốc tế nửa cuối thế kỷ XIX
          Như chúng ta đã biết, sau khi các cuộc cách mạng tư sản diễn ra ở Hà Lan, Anh và nhiều nước châu Âu khác, chủ nghĩa tư bản với tư cách là một hình thái kính tế xã hội mới đã xuất hiện và bắt đầu có những tác động to lớn đến đời sống chính trị và kinh tế thế giới. Nhờ có nền sản xuất công nghiệp và việc ứng dụng thành tựu kỹ thuật tiên tiến mà năng suất lao động trong trong các nước tư bản đã tăng cao. Sau các cuộc phát kiến địa lý lớn diễn ra vào cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, một số cường quốc châu Âu mà tiêu biểu là Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh, Hà Lan, Pháp… đã ra sức tìm đường đến phương Đông và nhiều vùng đất khác trên thế giới tìm kiếm thị trường, tiến hành hoạt động buôn bán và vơ vét tài nguyên thiên nhiên. Lợi nhuận thu được từ các quốc gia phương Đông trong các thế kỷ XVI-XVII đã góp phần quan trọng tạo ra nguồn tích lũy vốn nguyên thủy cho quá trình công nghiệp hóa và phát triển ban đầu của chủ nghĩa tư bản.
          Trong quá trình mở rộng ảnh hưởng và bành trướng đó, đến thế kỷ XIX, các quốc gia tư bản sau một thời kỳ phát triển trong điều kiện tự do cạnh tranh đã chuyển dần sang thời kỳ đế quốc chủ nghĩa. Bằng nhiều cách và mức độ khác nhau, các dân tộc châu Á và nhiều quốc gia trên thế giới đã từng bước trở thành thuộc địa và phụ thuộc nặng nề về kinh tế, chính trị vào các nước tư bản phương Tây. Vào cuối thế kỷ XIX, trong quá trình bành trướng mạnh mẽ của chủ nghĩa thực dân, các nước tư bản Anh, Pháp, Đức, Nga, Mỹ đã dần dần nổi lên như những cường quốc trên thế giới. Theo đó, năm 1881, Pháp đã thiết lập chế độ bảo hộ ở Tunis, năm 1882, Anh chiếm Ai Cập, năm 1883, Đức bắt đầu tham gia giành đất thuộc địa ở Tây - Nam Phi. Trong các năm 1884 - 1885, Pháp và Anh tiến mạnh đến khu vực Đông Dương và Miến Điện (Myanmar) năm 1889 các nước Đức, Anh và Mỹ chiếm vương quốc Samoan và phân chia nước này thành ba vùng cộng trị[3]. Như vậy, đến giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XIX, phần lớn khu vực Trung Đông, châu Phi, châu Á Thái Bình Dương đều lần lượt rơi vào tay các cường quốc thực dân. Ở Đông Bắc Á, cho đến giữa thế kỷ XIX, các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên cũng bắt đầu bị cơn lốc của chủ nghĩa thực dân tràn tới.
          Là một quốc gia có vị trí chiến lược ở khu vực Đông Bắc Á, lại từng là một trung tâm kinh tế lớn của châu Á trong các thế kỷ XVI-XVIII, đến thế kỷ XIX, Nhật Bản trở thành đối tượng chinh phục của nhiều nước tư bản Âu - Mỹ. Từ đầu thế kỷ XIX, nhiều tàu buôn và chiến hạm của Nga, Hà Lan, Anh và Mỹ… đã đến Nhật Bản, yêu cầu chính quyền Edo từ bỏ chính sách tỏa quốc (sakoku) để mở cửa thông thương với thế giới bên ngoài[4].
          Nguyễn Trường Tộ (1830[5]-1871) vốn xuất thân trong một gia đình Công giáo, nhưng là người học thông Tứ thư, Ngũ kinh của đạo Nho, lại có điều kiện trải nghiệm thực tế, học tập và tiếp xúc với nền văn minh của nhiều nước phương Đông và phương Tây như Hương Cảng, Singapore, Romas, Thụy Sĩ và Pháp. Chính từ vốn học vấn uyên thâm kết hợp với những trải nghiệm quý báu của bản thân, đã tạo cho ông nhãn quan sắc bén cũng như tầm nhìn sâu rộng với nhiều nhận thức vượt thời đại. Trong bối cảnh và khuynh hướng vận động chung của thế giới thời bấy giờ, Nguyễn Trường Tộ có những nhận định sâu sắc và xác thực: “Ngày nay các nước phương Tây đã bao chiếm suốt từ Tây Nam cho đến Đông Bắc, toàn lãnh thổ châu Phi cho tới Thiên Phương, Thiên Trúc, Miến Điện, Xiêm La, Tô Môn Đáp Lạp, Trảo Oa, Lữ Tống, Cao Ly, Nhật Bản, Trung Quốc và các đảo ở ngoài biển, kể cả Tây châu, không đâu là không bị chẹn họng bám lưng. Nước Nga thì từ Tây Bắc đến Đông Nam gồm tất cả các nước Đại Uyển, Cốt Lợi Cán, Mông Cổ và các xứ ở Bắc Mãn Châu, không đâu là không chiếm đất và nô dịch dân những nơi đó. Ở trên lục địa, tất cả những chỗ nào có xe thuyền đi đến, con người đi qua, mặt trời, mặt trăng soi chiếu, sương mù thấm đọng thì người Âu đều đặt chân đến, như tằm ăn cá nuốt, ở đâu thuận với họ thì phúc, chỗ nào trái với họ thì họa; ai hòa với họ thì được yên, ai cự lại thì dùng binh lực giao tranh; trong thiên hạ không ai dám kháng cự lại họ”[6].
          Ông còn phân tích thêm: “Trước đây trong bài Lục Lợi từ tôi đã bẩm rằng cái kế mưu sinh của phương Tây, quá nửa do đoạt lấy từ nước ngoài… Phương pháp họ dùng để đoạt lấy, chủ yếu là ở xen lộn và thông thương buôn bán. Nếu sơ đầu mà không đạt được yêu cầu, họ sẽ không chiếm đất đai để làm chỗ bảo vệ việc thông thương buôn bán của họ. Nếu được ngay không có gì trở ngại, có thể cư ngụ yên ổn, họ không cần cưỡng bức chiếm cắt (Không phải bản tâm họ không muốn chiếm cắt, nhưng mới đầu, thế buộc phải làm như vậy). Trước tiên họ chỉ tiến hành thiết lập các phố buôn để tiện cư trú buôn bán mà thôi. Như gần đây bọn chúng đã làm ở Nhật Bản, Trung Quốc, Xiêm La vậy. Ý họ cho rằng nếu tranh chấp sớm kết oán càng sâu”[7].
          Như vậy, trước sự xâm nhập và bành trướng ngày càng sâu rộng, với cường độ ngày càng gia tăng của các quốc gia tư bản phương Tây, điều tất yếu là các quốc gia phương Đông phải đứng lên bảo vệ chủ quyền dân tộc và giữ gìn những nguồn tài nguyên của đất nước mình. Mỗi quốc gia phương Đông có những tiềm lực và điều kiện khác nhau, cho nên giữa họ cũng có những khuynh hướng tự vệ khác nhau. Dù đấu tranh theo hình thức nào thì cuối cùng các quốc gia phương Đông hoặc phải đứng lên đấu tranh bằng vũ trang hoặc lựa chọn con đường cải cách, duy tân tiến tới tự cường đất nước. Tuy cách thức có khác nhau nhưng cả hai con đường đó đều có mục tiêu chung là bảo vệ nền độc lập, chủ quyền dân tộc.
Là quốc gia tiêu biểu ở châu Á tiến hành thành công cải cách đất nước, giới lãnh đạo phong trào cải cách ở Nhật Bản đã có những nhận thức đúng, kịp thời và vận dụng có hiệu quả thuyết thế và thời trong triết luận phương Đông vào công cuộc “phú quốc cường binh”, hơn thế họ còn vượt qua được “định mệnh” của lịch sử, bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ, sánh vai cùng đội ngũ liệt cường thế giới. Đúng như trí sĩ Nguyễn Trường Tộ từng nhận xét về bối cảnh thế giới và hiện trạng của Nhật Bản cũng như một số quốc gia khác thời bấy giờ: “Theo phép liên hoành và cân bằng thế lực trên thế giới mà cái gương thành công thất bại gần ta nhất như nguyên do Ấn Độ mất toàn lãnh thổ, Miến Điện bỏ một nửa đất đai, Xiêm La, Nhật Bản, Trung Quốc được lợi lớn, có thể thấy được đại khái là do không biết thời thế. Không biết thời thế thì tri thức câu chấp, tâm tính hẹp hòi”[8].
          2. Nhận thức của Nguyễn Trường Tộ về Nhật Bản
          Hiện nay, nghiên cứu về cải cách Minh Trị của Nhật Bản nói riêng[9] cũng như những nghiên cứu về con người Nguyễn Trường Tộ và tư tưởng canh tân đất nước của ông[10] đã thu hút nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước, nhưng nghiên cứu về đề tài Nhật Bản và cải cách Minh Trị của Nhật Bản trong nhận thức của Nguyễn Trường Tộ chưa thật sự được chú ý. Từ thực tế lịch sử cho thấy, với vốn kiến thức thực tế phong phú và tầm hiểu biết uyên thâm của mình, Nguyễn Trường Tộ có những nhìn nhận, kiến giải khá sâu sắc và có tính hệ thống về Nhật Bản trước, trong và ngay sau cải cách Minh Trị[11].
          Là người có điều kiện đi qua và tiếp xúc với nhiều nước châu Á cũng như châu Âu, điều hiển nhiên là Nguyễn Trường Tộ đã tự trang bị cho mình một tầm kiến văn phong phú, sâu sắc về thế giới. Trên cơ sở đó, ông đã đưa ra quan điểm về những khuynh hướng vận động của thời đại. Ông đã nhận định về vị thế và tình thế của Nhật Bản trong “thân phận” của nó với tư cách là quốc gia láng giềng của nước Nga: “Lại như các lớn thuộc phía Bắc nước Nhật và Mông Cổ Ngoại Minh giáp với Triều Tiên đều đã nhập hết vào bản đồ nước Nga”[12]. Như vậy, trong xu thế bành trướng, xâm lược mạnh mẽ của các đế quốc châu Âu nhìn chung các dân tộc “nhỏ yếu” phương Đông đều phải gánh chịu chung một số phận. Ông cho rằng: “Ấn Độ đã thuộc Anh không phải bàn nữa. Miến Điện và Xiêm La là thân cá chậu. Còn lại nước ta và Nhật Bản coi như đô thị lớn của vùng Biển Đông, Triều Tiên bên cạnh như một cái phố nhỏ chỉ đủ cho bọn chúng điểm tâm buổi sáng, chẳng quan trọng gì. Nhật Bản tuy cứng mạnh, hung hãn, nhưng các tiểu hầu phân chiếm từng mảnh, ý chí sức lực không đều nhau, trở ngại cho việc tiếp ứng. Hơn nữa nước này bốn mặt bể bao bọc, chẳng có hàng xóm láng giềng với ai, rốt cuộc cúng khó tranh hơn với các địch thủ lớn, chuyên vẫy vùng trên biển… Hợp Chúng Quốc xưa nay đối với thế giới có tiếng là “Ông già hòa bình” nhưng nay họ phải bỏ đường lối ấy. Họ lại thấy Nga và Pháp sắp rửa áo giáp ở Thái Bình Dương thì lý nào họ lại ngồi yên để xem miếng mồi ấy lọt vào tay ai. Chắc chắn họ cũng sẽ hươi gươm vác súng vào cái chợ lớn Trung Quốc mà đánh chén với các nước phương Tây. Còn nước ta và Nhật Bản như là hai con đường lớn của hai đầu chợ ấy, chắc chắn sẽ là nơi bọn chúng buông gánh nghỉ vai. Điều đó sớm muộn sẽ xảy ra không sao tránh khỏi”[13]. Như vậy, trong nhận thức của Nguyễn Trường Tộ, thế giới phương Đông rộng lớn hiện ra và có đầy sức hấp dẫn với thế giới tư bản phương Tây. Dù sớm hay muộn, các quốc gia phướng Đông đều trở thành miếng mồi béo bở để các thế lực tư bản phương Tây xâu xé, xâm chiếm. Nhật Bản là quốc gia có vị trí chiến lược quan trọng, điều tất yếu là dân tộc này cũng khó nằm ngoài âm mưu thôn tính của các nước thực dân. Trước trào lưu xâm lược của thế giới tư bản phương Tây, theo Nguyễn Trường Tộ, Nhật Bản đã lựa chọn cho mình con đường tự vệ đúng đắn và cách ứng xử khôn khéo đó là tích cực học tập phương Tây, tiến tới tự cường dân tộc.
          Trong bối cảnh quốc tế giữa thế kỷ XIX, để lựa chọn cho mình con đường đấu tranh phù hợp, điều tiên quyết là mỗi quôc gia ở châu Á phải tự nhận thức vị trí của mình trên bàn cờ chính trị khu vực cũng như điều kiện thực tế, tiềm lực vốn có của mình. Quan điểm đó gắn với năng lực tự thân, tố chất và khả năng thích ứng của chính mỗi quốc gia. Trong quá trình vận động cải cách, người Nhật đã từng bước nhận thức đúng con đường cải cách và không ngừng phát triển, hoàn thiện con đường cải cách đó theo cách thức của dân tộc mình. Theo ông, sở dĩ người Nhật có thể chuẩn bị để tiến tới một cuộc thay đổi lớn là vì những phẩm chất tự nhiên mà họ có được. Theo đó: “Trên địa cầu, có giống tốt phước, có giống vô phước. Đó là lẽ tiền định của tạo vật, nếu không xét kỹ nguồn gốc trời, đất, người, vật, không thể nào hiểu thấu và tin tưởng lẽ ấy được. Tuy nhiên, cứ xem các nước xưa nay cũng có thể hiểu biết rõ chuyện ấy có thật. Giống tốt phước ở Đông Châu (Đông bán cầu của quả đất là Đông Châu, Tây bán cầu là Tây Châu) như người phương Tây, người Ấn Độ, người Mông Cổ, người Trung Quốc, người Nhật Bản và người nước ta. Những giống dân này mỗi ngày một thịnh, mỗi thế kỷ tăng lên hai lần rưỡi”[14].
          Không những vậy, trước bất kỳ một vấn đề hệ trọng mang tính bước ngoặt của mỗi quốc gia, dân tộc, điều rất quan trọng là cần có sự đồng lòng, hòa thuận từ trên xuống dưới và của quân - thần cũng như vua - tôi. Đây không chỉ là cơ sở để mỗi quốc gia vượt qua khó khăn, thử thách mà còn tạo dựng nên sự trường tồn, bền vững của mỗi dân tộc. Thực tế thì, theo Nguyễn Trường Tộ: “Mọi quyền lực hành vi trong một nước phải do vua nắm, và cùng với quốc dân chia sẻ nỗi vui buồn. Ngoài quy luật này ra đều là tội cả. Tôi xem khắp các nước trong thiên hạ, hễ nước nào có một họ được bề tôi đời đời giúp rập thì tuy có đôi khi suy vi nhưng trong nước cũng không đến nỗi có loạn lớn. Như Nhật Bản đã mấy nghìn năm, Thổ Nhĩ Kỳ đã nghìn năm, các nước phương Tây đều như thế cả, ở Nam Tây Châu cũng vậy. Sở dĩ dân ở đấy phần nhiều chỉ có loạn nhỏ mà không có loạn lớn là vì danh nghĩa đã xác lập ngôi vị ổn định, nghe thấy đã quen ít xảy ra việc đoán thoạn làm loạn”[15].
          Và sự thống nhất ý chí của dân tộc Nhật Bản thể hiện rõ nét trong việc kiên tâm học tập và ứng dụng khoa học kỹ thuật của chính các quốc gia tư bản phương Tây. Điều này có nền tảng từ quan niệm thực học truyền thống của người Nhật, chúng ta thấy rằng cùng quan niệm xây dựng một hệ thống giáo dục đó là: “Trừ Trung Quốc, Nhật Bản, Cao Ly và nước ta ra không có nước nào lấy văn chương để chọn nhân tài. Đó cũng vì thơ phú không đuổi được giặc, nghìn lời không được một kế sách, cho nên thay đổi đi mà lấy những điều tạo hóa hành sự làm cái học thực dụng, vì tạo vật là bậc thầy vĩ đại của muôn dân”[16]. Tuy nhiên, khi so sánh với Việt Nam, về bản chất của hệ thống giáo dục của Nhật Bản, Nguyễn Trường Tộ cũng đã nhận thấy có nhiều điểm khác biệt: “Ngày nay chúng ta, lúc nhỏ thì học văn, từ, thơ phú, lớn lên ra làm thì lại luật, lịch, binh, hình. Lúc nhỏ nào học Sơn Đông, Sơn Tây mắt chưa từng thấy, lớn lên ra làm thì đến Nam Kỳ, Bắc Kỳ. Lúc nhỏ học nào thiên văn , địa lý, chính sự, phong tục tận bên Tàu (mà nay họ đã sửa đổi khác hết rồi), lớn lên ra làm thì dùng đến địa lý, thiên văn, chính sự, phong tục của nước Nam, hoàn toàn khác hẳn. Lúc nhỏ học những lễ nhạc, cách ăn uống, cư xử chiến đấu, doanh trại từ xa xưa của Tàu, lớn lên ra làm thì phải dùng lễ nhạc, cách chiến đấu, phép ăn ở theo quan dân nước ta ngày nay. Còn biết bao nhiêu những việc tương tự như thế, mòn bút khô môi cũng không kể hết. Xưa nay các nước trên thế giới chưa từng nước nào có nền học thuật như vậy. Quả thật lạ đời! Tuy Nhật Bản, Cao Ly cũng đọc sách Tàu nhưng chỉ để làm vui (Phải đọc sách của nước họ mới biết sự thật. Nếu xem sách Nho thì bao giờ cũng thấy nói khắp thiên hạ đều học theo phép Nho của mình cả. Đó chỉ là nói để khoe tốt, không đủ tin). Còn ra thì làm theo sách của nước họ, công việc của nước họ, chưa bao giờ thấy họ học và dùng những gì mà mắt không trông thấy, chân không đặt đến như lối học của nước ta”[17]. Và trước nguy cơ bị thực dân phương Tây nhòm ngó, Nhật Bản đã lựa chọn học tập kỹ nghệ của chính các nước phương Tây, đê tự cường đất nước: “Nhật Bản và Trung Quốc dần dần đã rõ cơ hội đó, nên Nhật Bản đã cho nhiều người sang các nước phương Tây du học, đồng thời để dò xét tình hình. Hiện có một hoàng tử và 35 người cùng đi với một linh mục mới đến Ba Lê (tức Paris - TG) và đã thiết lập ở đó một Đại học xã để phái người sang học”[18].
          Không chỉ mời các chuyên gia nước ngoài về Nhật giảng dạy và tạo dựng cơ sở vật chất, việc cử chuyên gia sang nước ngoài học tập là hoạt động diễn ra liên tục và thường xuyên. Nhật Bản đã học tập kỹ nghệ phương Tây phong phú và trên nhiều phương diện, các di thảo của Nguyễn Trường Tộ cho biết: “Hiện nay Nhật Bản, Miến Điện cũng đã phái người đến kinh đô nước Pháp học kỹ nghệ. Đến như nước Nga ở phương Tây mà cũng cho người đến nước Anh, nước Pháp học tập. Tuy phải dụng công lâu dài, dụng công rất lớn, nhưng cũng thu hoạch được nhiều. Vì rằng muốn thành đại sự phải mất hàng trăm năm chứ đâu phải một ngày mà được. Cho nên người quân tử lo toan mọi việc chẳng những ở đời mình mà cho con cháu nữa”[19]. Từ đó tác giả liên hệ: “Tôi thiết nghĩ rằng tuy là người ngoài hội, nhưng đã làm việc cho người nước ngoài nhiều như hiện nay người nước Nhật Bản cũng mời họ (tức người Pháp - TG) đến mở xưởng đóng thuyền, theo những phương pháp mới. Trung Quốc, Xiêm La, Miến Điện cũng vậy”[20]; “Mỗi ngày xưởng (xưởng chế tạo súng hỏa mai ở ngoại ô Ba Lê, tức Paris ngày nay, - TG) có thể sản xuất mười vạn cây súng. Công nhân trên ba trăm (Người Nhật hiện đến mua của xưởng một trăm vạn cây súng, mua các giàn máy và thuê hai công nhân về Nhật Bản lập xưởng)”[21]; “Ở đấy có một vị công tử đứng đầu hội (hội ở đây chính là xưởng đào mỏ đúc sắt – TG), y là con một ông quan lớn nhất trong Viện Thứ Dân (ông này là Viện trưởng Viện Thứ Dân, như Tể tướng). Chúng tôi đã ở nhà công tử ấy một tuần và có nói chuyện nhiều với công tử rằng nước ta vốn muốn cộng tác với nước Pháp để được thịnh lợi chung, y rất thích. Tôi cũng nói với y rằng khi về nước sẽ đem hết những gì cơ xưởng của y có bẩm lên Triều đình để biết sau này có mua sắm gì sẽ nhờ y liệu biện cho, như Nhật Bản, Xiêm La vậy”[22]; “Vả lại, nếu muốn tìm các thứ máy móc theo kiểu mới thì khắp nước Pháp, không đâu hơn ở đây. Nếu các quan ta đi đến đây đính ước sự mua bán về sau như Nhật, có gì mà không được?”[23].
          Như vậy, những hoạt động tích cực trên đây của Nhật Bản tạo tiền đề quan trọng để Nhật Bản tiến hành thành công cải cách Minh Trị, đây không chỉ là kết quả của sự thích ứng với bối cảnh lịch sử mới của quốc gia này, mà còn là thành quả kế thừa từ thời kỳ Tokugawa (1600-1868). Thực tế thì, “trải qua 267 năm tồn tại và phát triển, chế độ phong kiến Tokugawa mặc dù không tránh khỏi những hạn chế lịch sử, nhưng từ trong lòng xã hội phong kiến, nhiều nhân tố kinh tế - xã hội mới đã nảy sinh. Các nhân tố kinh tế - xã hội đó đã tạo nên tiền đề và động lực hết sức quan trọng để Nhật Bản có thể tiến hành cuộc cải cách xã hội rộng lớn đồng thời bảo đảm những cơ sở cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của một nhà nước tư sản đầu tiên ở châu Á”[24].
          Kết quả là, Nhật Bản đã bước đầu tiến hành thành công cải cách Minh Trị, điều này không chỉ giúp Nhật Bản thoát khỏi vanh nuốt đô hộ của các nước phướng Tây, mà quốc gia này còn thành công trong việc thực hiện mục tiêu cơ bản của mình là xây dựng đất nước trở thành “phú quốc cường binh”. Theo nhìn nhận của Nguyễn Trường Tộ: “Lại xem Nhật Bản xưa vốn là lũ người lùn, từ trung diệp nhà Minh mới bắt đầu giao hảo với Hà Lan, làm bạn với Bồ Đào Nha, kế đến mời Hợp Chúng Quốc giúp vào việc nước, mở mắt nhìn rộng rãi thiên hạ mới có chí hướng lớn như vậy. Từ đó họ đóng tàu bè, luyện tập võ bị, ưu tiên phát triển thương nghiệp, công nghiệp, đất nước mỗi ngày một mạnh, được khen với mỹ danh là Tiểu Tây và Trung Quốc khó bắt được Nhật Bản phải thần phục. Tuy gần đây Anh, Pháp thường hay quấy nhiễu nhưng nhờ có nền nội trị ngoại giao vững vàng mà họ không chịu hạ mình. Như trước đây ba năm Anh, Pháp đem binh thuyền đến toan đàn áp, nhưng nhờ có Hợp Chúng Quốc, Hà Lan phân giải mà việc đã không xảy ra. Đó không phải là công dụng của sự giúp đỡ của các nước hay sao? Còn như ngày nay nước ấy có những kế hoạch giao thiệp rộng rãi, những mưu cơ tân tiến thì đâu đâu người ta cũng đã nghe thấy rõ rang, gương ấy không xa, không cần phải nêu ra nữa”[25].
          Sự thành công ban đầu của công cuộc cải cách của Nhật Bản được trí sĩ Nguyễn Trường Tộ luận giải và nhận thức trong một logic nhất quán: “Tôi xem khắp thiên hạ từ xưa đến nay, các nước sở dĩ bảo tồn được dài lâu, không nước nào không do hai điều kiện là giàu và mạnh. Mà sở dĩ được giàu mạnh thì không thể không bắt đầu bằng việc mở rộng đất đai làm đông dân chúng, thông thương qua lại và giao du với các nước. Sau đó lấy nhân nghĩa công bằng mà qua lại với các nước làm cho mình và người cả hai đều được lợi, thì mới đạt được sở nguyện. Đó là đường lối thông thường mà tất cả các nước trên thế giới hiện nay đều tiến hành như thế, tập tành ham chuộng đường lối ấy, tìm cách thực hành đường lối ấy, mấy trăm năm càng ra làm càng có lợi mà không ai nghỉ tay, cũng vì bỏ đường lối này không còn phương sách nào khác”[26].
          3. Một số nhận xét
          Mặc dù là người đi khá nhiều quốc gia trên thế giới, bao gồm cả một số quốc gia ở phương Đông cũng như phương Tây, nhưng Nguyễn Trường Tộ vẫn chưa một lần có điều kiện đặt chân đến Nhật Bản. Tuy nhiên, trong tổng số 58 di thảo của mình, địa danh Nhật Bản được Nguyễn Trường Tộ đề cập đến 23 lần, với những nhìn nhận đánh giá khá sâu sắc và tương đối xác thực so với tư liệu và nguồn tri thức chúng ta có thể tiếp nhận được ngày nay. Điều này vừa cho thấy vốn kiến thức uyên thâm của cá nhân ông nhưng đồng thời cũng thể hiện khả năng nắm bắt và truyền tải thông tin tương đối chính xác thời bấy giờ. Nhật Bản hiện lên rõ nét trong nhận thức của Nguyễn Trường Tộ trước, trong, sau cải cách Minh Trị.
          Đêm trước của cải cách Minh Trị năm 1868, với vị trí địa chiến lược quan trọng, cũng như nhiều quốc gia khác ở phương Đông, Nhật Bản phải đối diện với âm mưu xâm lược bành trướng của thực dân phương Tây. Bằng ngòi bút sắc sảo và khả năng phân tích sắc bén của mình, Nguyễn Trường Tộ nhìn nhận người Nhật, dân tộc Nhật với tiềm lực và khả năng của bản thân đã quyết tâm hướng dân tộc dến sự lựa chọn cách thức học tập phương Tây với một nội dung phong phú, đa dạng, nhằm mau chóng đưa Nhật Bản thành một quốc gia cường thịnh. Đó là một sự lựa chọn hết sức khôn ngoan và đúng đắn. Mặc dù, trong toàn bộ di thảo của Nguyễn Trường Tộ, chúng ta chưa thấy ông viết nhiều về sự vận động bên trong của phong trào cải cách, phân tích kỹ những đặc tính của một cuộc vận động cải cách đang diễn ra… song thông qua những trang viết ông luôn nhấn mạnh đến tinh thần, ý chí, quyết tâm, năng lực học tập, tính cầu thị của người Nhật. Theo ông đó là tấm gương hữu ích, thực tế, cần phải học tập.
          Từ một quốc gia có nguy cơ bị biến thành dân tộc nô lệ như nhiều nước khác ở Đông Á, sự thành công của cải cách Minh Trị khiến Nhật Bản có thể phát triển nền công nghiệp, thương nghiệp, từng bước trở thành một đất nước giàu mạnh. Cùng với chính sách ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo, biết lựa chọn những bước đi thích hợp, (vốn là đặc tính của xã hội thương nghiệp, lối tư duy giàu lý trí của xã hội võ sĩ…), Nhật Bản đã sớm duy trì được sự cân bằng quyền lực với các thế lực thực dân phương Tây để bảo vệ chủ quyền dân tộc cùng lợi ích quốc gia. Nhận thức về Nhật Bản, về một đất nước có cùng bối cảnh, cùng tình thế, nhận thức của Nguyễn Trường Tộ luôn có những liên hệ và đặt trong tương quan so sánh với tình thế của Việt Nam. Tấm gương Nhật Bản được ông đưa vào trong các trang điều trần với nội dung đa diện, đa chiều và tâm thức tích cực nhưng qua đó cũng thể hiện không ít những cảm quan, thiên kiến của mộtnhà cải cách, một trí thức yếu nướcsống giữa cuộc chuyển giao lớn của dân tộc và thời đại.






[1]Michio Morishima, Tại sao Nhật Bản “thành công”? Công nghệ phương Tây và tính cách Nhật Bản, Nxb. Khoa học Xã hội, H., 1991, tr.75.
[2]Nguyễn Văn Kim, Cải cách Minh Trị ở Nhật Bản (1868-1912); trong: Vũ Dương Ninh (Cb), Phong trào cải cách ở một số nước Đông Á giữa thế kỷ XIX- đầu thế kỷ XX, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, H., 2007, tr.50 -51.
[3]Marius B. Jasen (Ed), The Cambridge History of Japan, Vol. V, Cambridge University, 1973, p.747.
[4]Xin xem thêm: Nguyễn Văn Kim, Cải cách Minh Trị ở Nhật Bản (1868-1912), trong: Vũ Dương Ninh (Cb), Phong trào cải cách ở một số nước Đông Á giữa thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, Sđd, tr. 50-161.
[5]Từ đầu thế kỷ XX, một số trí thức cho rằng Nguyễn Trường Tộ sinh năm 1828, chúng tôi chọn năm 1830 theo như nguồn tài liệu cung cấp của ông Nguyễn Trường Cửu (trong Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ) - Con trai của Nguyễn Trường Tộ.
[6]Nguyễn Trường Tộ, Thiên hạ đại thế luận, Di thảo số 1, tháng 3 – 4 năm 1863, in trong Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ: Con người và di thảo, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1988, tr. 107. Toàn bộ di thảo của Nguyễn Trường Tộ dùng trong bài viết này, chúng tôi sử dụng trong công trình tập hợp và biên dịch của nhà nghiên cứu Trương Bá Cần.
[7]Nguyễn Trường Tộ, Bàn về việc cho Pháp thông thương để đổi lại sáu tỉnh, Di thảo số 41, ngày 30 tháng 3 năm 1871, Sđd, tr.333.
[8]Nguyễn Trường Tộ, Bàn về việc cho Pháp thông thương để đổi lại sáu tỉnh, Di thảo số 41, ngày 30 tháng 3 năm 1871, Sđd, tr.333.
[9]Về cải cách Minh Trị của Nhật Bản, xin xem thêm: R. H. P Mason & J. G. Caiger, Lịch sử Nhật Bản, Nguyễn Văn Sĩ dịch, Nxb. Lao Động, H., 2003, tr.294-354; Fukuzawa Yukichi, Nhật Bản cách tân giáo dục thời Minh Trị, Nxb Chính trị Quốc gia, H., 1995; Michio Morishima, Tại sao Nhật Bản “thành công”? công nghệ phương Tây và tính cách Nhật Bản, Nxb Khoa học xã hội, H. 1991, tr. 75 - 117; Nguyễn Văn Kim, Cải cách Minh Trị ở Nhật Bản (1868-1912), Sđd, 50-161; Nguyễn Văn Kim, Vai trò của các tozama daimyo trong tiến trình cải cách ở Nhật Bản thế kỷ XIX (Những vấn đề khoa học đang đặt ra), in trong Nhật Bản với châu Á những mối liên hệ lịch sử và chuyển biến kinh tế - xã hội, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, H., 2003, tr.449- 478; Đặng Xuân Kháng, Một số tư tưởng chủ đạo của cải cách giáo dục Nhật Bản thời Minh Trị duy tân, trong: Đông Á - Đông Nam Á những vấn đề lịch sử và hiện tại, Nxb. Thế giới, H., 2004, tr.179-188…
[10]Về Nguyễn Trường Tộ và những tư tưởng canh tân đất nước của ông, xin xem thêm: Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ: Con người và di thảo, Sđd; Hoàng Thanh Đạm, Nguyễn Trường Tộ: Thời thế và tư duy cách tân, Nxb. Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 2001; Đinh Xuân Lâm – Nguyễn Văn Hồng, Xu hướng đổi mới trong lịch sử Việt Nam, Nxb. Văn hóa thông tin, H., 1998; Đỗ Bang - Trần Bạch Đằng - Đinh Xuân Lâm - Hoàng Văn Lân - Lưu Anh Rô - Nguyễn Quang Trung Tiến - Nguyễn Trọng Văn, Tư tưởng canh tân đất nước dưới triều Nguyễn, Nxb. Thuận Hóa, 1999…
[11]Khi khảo sát tuyển tập công trình của Trương Bá Cần, chúng tôi nhận thấy trong toàn bộ 58 di thảo của Nguyễn Trường Tộ, danh từ Nhật Bản xuất hiện tổng số là 23 lần, tại 13 di thảo gồm di thảo số 1, 2, 4, 7, 13, 18, 26, 27, 35, 38, 41, 50, 55.
[12]Nguyễn Trường Tộ, Tám việc cần làm gấp (Tế cấp bát điều), Di thảo số 27, ngày 15 tháng 11 năm 1867, Sđd, tr. 227.
[13]Nguyễn Trường Tộ, Tám việc cần làm gấp (Tế cấp bát điều), Di thảo số 27, ngày 15-11-1867, Sđd, tr. 229.
[14]Nguyễn Trường Tộ, Tám việc cần làm gấp (Tế cấp bát điều), Di thảo số 27, ngày 15-11-1867, Sđd, tr.268.
[15]Nguyễn Trường Tộ, Ngôi vua là quí, chức quan là trọng. Tháng 5-1866, di thảo số 13, Sđd, tr.15
[16]Nguyễn Trường Tộ, Về việc học thực dụng, tr.192. Ngày 1-9-1866, di thảo số 18, Sđd, tr.192.
[17]Nguyễn Trường Tộ, Tám việc cần làm gấp (Tế cấp bát điều), Di thảo số 27, ngày 15-11-1867, Sđd, tr.249.
[18]Nguyễn Trường Tộ, Tám việc cần làm gấp (Tế cấp bát điều), Di thảo số 27, ngày 15-11-1867, Sđd, tr.229.
[19]Nguyễn Trường Tộ, Về việc đào tạo người điều khiển và sửa chữa thuyền máy, tr.157-158, di thảo số 7, tháng 2-1865, Sđd, tr.157-158.
[20]Nguyễn Trường Tộ, Tờ trình về việc ký hợp đồng với hội nước ngoài, tr. 221, di thảo số 26, ngày 12 tháng 5 năm 1867, Sđd, tr. 221.
[21]Nguyễn Trường Tộ, Tám việc cần làm gấp (Tế cấp bát điều), Di thảo số 27, ngày 15-11-1867, Sđd, tr.229.
[22]Nguyễn Trường Tộ, Nói rõ thêm về văn bản 16 – 2 Tự Đức 21, di thảo số 35,ngày 15-3-1868, Sđd, tr.301.
[23]Nguyễn Trường Tộ, Nói rõ thêm về văn bản 16 – 2 Tự Đức 21, di thảo số 35,ngày 15-3-1868, Sđd, tr.302.
[24]Nguyễn Văn Kim, Chính sách đóng cửa của Nhật Bản thời kỳ Tokugawa: Nguyên nhân và hệ quả, Nxb. Thế giới, H., 2000, tr.228.
[25]Nguyễn Trường Tộ, Nên mở cửa chứ không nên khép kín, di thảo số 55,tháng 10-1871, Sđd, tr.408-409.

[26]Nguyễn Trường Tộ, Nên mở cửa chứ không nên khép kín, di thảo số 55,tháng 10-1871, Sđd, tr.408.
https://vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/nhat-ban-va-cai-cach-minh-tri-1866-trong-nhan-thuc-cua-nguyen-truong-to

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét