- Lê Thị Lan
Công
cuộc đổi mới đất nước đã đi được chặng đường 22 năm. Rất nhiều thành
tựu về kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục đạt được sau khoảng thời gian
này đã khẳng định tính đúng đắn, không thể đảo ngược của con đường phát
triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng
thời, nhiều vấn đề bất cập, tiêu cực, mặt trái cũng đã xuất hiện và bộc
lộ ngày càng rõ nét cản trở quá trình xây dựng, phát triển đất nước theo
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thực
tiễn này đòi hỏi giới lý luận phải có những nghiên cứu tổng kết, đánh
giá khách quan nhằm một mặt khắc phục, điều chỉnh những bất cập, hạn chế
nảy sinh trong quá trình quản lý, điều hành công cuộc đổi mới, mặt
khác, xây dựng và hoàn thiện lý luận phát triển của Việt Nam trong thời
đại mới.
Đã
có nhiều công trình nghiên cứu, tổng kết thành tựu 20 năm đổi mới đất
nước. Tuy nhiên, những đánh giá tổng kết đó còn chưa đầy đủ. Trong những
nghiên cứu đánh giá này, việc rà soát lại các giá trị tư tưởng cải cách
trong lịch sử dân tộc, xem xét những kết quả và bài học kinh nghiệm đổi
mới của quá khứ nhằm khẳng định các cơ sở lý luận nền tảng của việc xây
dựng và hoàn chỉnh lý luận phát triển của dân tộc trong thời đại ngày
nay là một điều không thể bỏ qua, bởi sự tương tác biện chứng không thể
phủ nhận giữa truyền thống và hiện đại.
Đã
137 năm trôi qua kể từ khi nhà tư tưởng cải cách xuất sắc thế kỷ XIX
Nguyễn Trường Tộ qua đời, và đã 22 năm trôi qua kể từ khi Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo toàn dân tiến hành công cuộc đổi mới. Đó là một thời
gian đủ dài để nhìn nhận lại các giá trị và hạn chế của tư tưởng cải
cách Nguyễn Trường Tộ trong sự vận động khách quan của lịch sử. Toàn bộ
các đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ đã thể hiện bốn phương diện
đổi mới cơ bản trong tư duy:
1.Tư duy chính trị mới
Đường
lối đức trị, lý tưởng xã hội thời Nghiêu, Thuấn, thiết chế nhà nước
phong kiến trung ương tập quyền chuyên chế là khuôn mẫu chính trị đã tồn
tại lâu dài ở Việt Nam trước khi Pháp xâm lược. Khi cục diện thế giới
thay đổi mạnh mẽ trong thời đại chủ nghĩa thực dân, khuôn khổ tư duy
chính trị Nho giáo này đã hạn chế các nhà nho Việt Nam, đặc biệt là
triều Nguyễn, trong cách nhìn lấy Trung Quốc làm trung tâm, khiến họ trở
nên bất cập trong phân tích thời thế, đánh giá tương quan lực lượng
địch- ta, bản chất của kẻ thù mới, từ đó không hoạch định được một chiến
lược phù hợp chống lại cuộc xâm lược của Pháp. Sự phân chia chủ chiến
và chủ hoà trong nội bộ triều đình vua Tự Đức kéo dài gần 20 năm không
chỉ thể hiện lối tư duy chính trị lạc hậu của tầng lớp lãnh đạo, mà còn
làm phân tán ý chí và sức mạnh chống giặc ngoại xâm của toàn dân tộc.
Trong
bối cảnh đó, Nguyễn Trường Tộ cũng đi theo đường lối chủ hoà. Nhưng chủ
hoà của Nguyễn Trường Tộ dựa trên cơ sở phân tích xu hướng xâm chiếm
thuộc địa của các nước tư bản phương Tây sang phương Đông, phân tích
tương quan mất cân bằng lực lượng giữa quân xâm lược và triều đình. Ông
coi hoà là chiến lược nhất quán từ đầu đến cuối và trên thế chủ động bàn
hoà nhằm mục đích có hoà bình để canh tân, nâng cao nội lực đất nước: „Sự thế hiện nay chỉ có hoà. Hoà thì trên không cưỡng lại ý trời, dưới có thể làm cho dân khỏi khổ“[1], „Dân
đã yên sau sẽ khiến kẻ hiền tài vượt biển, sang các nước lớn học cách
đánh trận giữ thành, học tập trí xảo của thiên hạ, giao thiệp với họ lâu
dài. mới biết lường sức đo tài, biết hết tình trạng của họ. Học cho
tinh vi mới sinh kỹ xảo, rất mực kỹ xảo mới mạnh, bấy giờ sẽ dưỡng uy
súc nhuệ, đợi thời hành động, mất ở phía Đông thì lấy lại ở phía Tây,
cũng chưa muộn gì“[2].
Đứng
ở thời điểm hiện tại nhìn về quá khứ, chúng ta thấy trong bối cảnh và
thời điểm 1863, sau khi triều đình đã ký hoà ước cắt 3 tỉnh miền Đông
Nam Kỳ cho Pháp, chủ trương „đổi đất lấy hoà bình“ của Nguyễn Trường Tộ
nhằm tận dụng cơ hội canh tân đất nước là có cơ sở. Chủ trương hoà của
ông là hoàn toàn khác với chủ trương hoà (hay là hàng) của triều đình
bởi mục đích và sự chủ động.
Tư
tưởng chính trị của Nguyễn Trường Tộ là một hỗn dung các tư tưởng chính
trị của Nho giáo, Ki tô giáo và tư sản của các nước Á-Âu đương thời mà
ông cho là hợp lẽ nhất, hiệu quả nhất. Ông đề cao chế độ quân chủ hiện
hành với uy quyền tuyệt đối thuộc về nhà vua dưới sự che chở của Chúa
nhưng nhà vua cũng không đứng ngoài pháp luật „Kẻ làm vua biết rõ cái
điều trời phó thác cho mình là nằng nề, mọi hoạ phúc đều do trách nhiệm
ở vua, cho nên tự hạ mình ghép vào vòng pháp luật“[3].
Mô hình nhà nước mà Nguyễn Trường Tộ mong muốn xây dựng mang bóng dáng
của nhà nước quân chủ kiểu Nhật, mà ông coi là kiểu mẫu về duy tân: „Tôi
đã hiểu rõ cái chính lý của đạo trung ái trong kinh, biết rõ danh vị là
lợi ích cho nhân dân, thấy thiên hạ có sự yên trị lâu dài, lợi ích to
lớn là do chỗ một họ cầm quyền, do chỗ đời đời truyền nối. Mà chế ngự
được nhân tâm là do trị lý về kinh tế, và duy trì được đời đời dài lâu
là nhờ ngoại giao“[4].
Mong
muốn xây dựng một mô hình nhà nước hiệu quả trong quản lý đất nước,
Nguyễn Trường Tộ đề nghị nhiều cải cách hành chính như hợp tỉnh, huyện
để tinh giản biên chế; giản lược thủ tục giấy tờ; tăng lương và có chế
độ đãi ngộ thoả đáng cho quan chức để tăng trách nhiệm của đội ngũ quan
lại, chống tham nhũng; sử dụng đội ngũ quan lại có thực tài, có chuyên
ngành thực dụng ngoài Nho giáo… . Những đề nghị cải cách này, nếu được
thực hiện sẽ dần dần tạo ra sự thay đổi lớn trong cơ chế quản lý, điều
hành nhà nước, nâng cao được sức mạnh quản lý của bộ máy công quyền.
Như
vậy, những đề nghị cải cách hành chính của Nguyễn Trường Tộ đã thể hiện
tầm tư duy chính trị đổi mới của ông. Đứng ở vị thế một người độc lập
đối với bộ máy nhà nước, Nguyễn Trường Tộ phân tích, đánh giá nội lực
yếu kém của triều đình trong tương quan với sức mạnh quân sự của thực
dân Pháp và đề nghị giải pháp hoà để canh tân mọi mặt kinh tế, văn hóa,
xã hội nhằm nâng cao nội lực, tiến tới bảo vệ lâu dài nền hoà bình thực
sự cho đất nước. Những tư tưởng chính trị này so với thực trạng chính
trị triều Nguyễn khi đó thực sự là có tính chất đổi mới. Ngày nay, một
phần những tư tưởng đó đã được hiện thực hoá và phát huy giá trị trong
thực tiễn cuộc sống, và một phần những tư tưởng này của Nguyễn Trường Tộ
vẫn gợi mở nhiều bài học giá trị.
2.Tư duy ngoại giao mới
Tư
duy ngoại giao bế quan toả cảng, không giao thiệp với người phương Tây
đã khiến triều Nguyễn bỏ qua cơ hội phát triển kinh tế đất nước đồng
thời không nhận thức được sự thay đổi lớn lao của cục diện thế giới theo
chiều hướng bất lợi cho dân tộc. Trong khi triều đình vẫn bối rối trong
vòng luẩn quẩn chủ chiến-chủ hoà, tìm cách chuộc lại đất đai đã mất và
duy trì đường lối ngoại giao đóng cửa bảo thủ, Nguyễn Trường Tộ đã mạnh
mẽ đề nghị con đường mở cửa thông thương, hướng ngoại: „Tôi nghĩ rằng
thời kỳ khôi phục nước nhà đã có xác chứng ở bốn bể, dự tính được ở
tương lai. Đi theo con đường nào mới được? Con đường phải theo không thể
tìm ở trong nước mà phải tìm trong thiên hạ“[5]. Đó là con đường ngoại giao mở cửa, thông thương. „Đường
lối thông thương mà tất cả các nước trên thế giới hiện nay đều tiến
hành như thế, tập tành ham chuộng đường lối ấy, tìm cách thực hành đường
lối ấy, mấy trăm năm càng ra làm càng có lợi mà không ai nghỉ tay, cũng
vì bỏ đường lối này không còn phương sách nào khác“[6]. „Nhờ
đường lối ấy mà mở mang được phong khí đã mấy ngàn năm ngu muội, thay
đổi được phong tục đã mấy ngàn năm quê mùa... Qua con đường ngoại giao,
thế giới có thể hoà hợp nhau, không phân biệt văn minh hay dã man, tất
cả đều được thịnh lợi“[7]. Tư tưởng ngoại giao mở cửa của Nguyễn Trường Tộ đề cao quan hệ đa phương và cùng có lợi về kinh tế và văn hoá.
Mặc
dù chưa nhận thức được các điều kiện thực tế quyết định khả năng thiết
lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên
thế giới khi đó, nhưng rõ ràng, về mặt chiến lược, đường lối ngoại giao
đa phương mà Nguyễn Trường Tộ đề xướng là rất đúng đắn. Đường lối ngoại
giao này biểu lộ một tư duy ngoại giao hoàn toàn mới trong lịch sử tư
tưởng dân tộc và mang đặc trưng cho đường lối đối ngoại của các dân tộc
trong thời đại mới. Tiếc rằng, triều Nguyễn đã không có được những động
thái cần thiết thể hiện sự thay đổi trong đường lối đối ngoại. Và cho
đến ngày nay, đường lối ngoại giao đa phương, đa chiều trên cơ sở các
bên cùng có lợi mà tư tưởng Nguyễn Trường Tộ đã đề cập tới trong điều
trần của ông vẫn được coi là đường lối ngoại giao thông minh trong quan
hệ quốc tế hiện đại, đặc biệt là trong quan hệ của Việt Nam với các nước
hiện nay[8].
3.Tư duy văn hoá-giáo dục mới
Chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền văn hoá Trung Quốc, đặc biệt là quan niệm „nội hạ ngoại di“
trong nhận thức về các nền văn hoá khác, triều đình nhà Nguyễn đã xây
dựng một lòng tự tôn dân tộc tới mức có thái độ phủ nhận các nền văn hoá
ngoài Trung Quốc. Việc coi kẻ xâm lược từ phương Tây tới là „Tây di“ có
tính miệt thị bất chấp việc tìm hiểu thực chất nền văn hoá của họ đã
khiến vua quan triều Nguyễn có những nhận thức lệch lạc về thực lực của
kẻ thù, từ đó dẫn tới những sai lầm trong hoạch định đường lối đối phó
với kẻ địch: „Thi thơ của ông Khổng, ông Mạnh là bài thơ làm cho giặc phải lui“[9].
Chính nhận thức cực đoan về văn hoá như vậy là rào cản cho một nhận
thức sát thực về thực trạng đất nước trong tương quan với kẻ thù trong
tình hình nền độc lập bị đe doạ. Nguyễn Trường Tộ đã triệt để đả phá
quan niệm văn hoá lạc hậu đó của triều đình và các văn thân nho sĩ. Ông
nêu dẫn chứng, kể cả Trung Quốc cũng đã từ bỏ quan niệm văn hoá ngạo mạn
đó và hăng hái học tập văn minh phương Tây. Phê phán quan niệm văn hoá
lạc hậu, Nguyễn Trường Tộ khẳng định, chỉ có con đường học tập văn minh
phương Tây mới có thể khắc phục các mặt yếu kém của đất nước, dần dần tự
trị, tự cường và chiến thắng kẻ xâm lược có nền văn minh cao hơn.
Từ
sự phê phán nền học thuật cũ, từ nhận thức mới về tính ưu việt của nền
văn minh vật chất phương Tây, Nguyễn Trường Tộ đề nghị một đường lối
giáo dục mới „Cần phải tìm cái học thực dụng, phân chia ra các khoa,
các môn, ban thưởng nhiều cho những người dự thi vào các khoa, các môn
này để khuyến khích dần dần đưa đến kết quả lợi ích thì tệ đoan sẽ mất
dần đi“[10], bởi vì „Nếu
đem cái công phu đã bỏ tâm trí một đời trau chuốt chữ nghĩa mà học
những việc hiện tại như trận đồ, binh pháp, đắp thành giữ nước, sử dụng
súng ống thì cũng có thể chống giặc được. Nếu đem cái công lao nửa đời
người đã dùng để học thuộc lòng những tên người, tên xứ, rập khuôn việc
chính trị...mà học những việc hiện nay như binh, hình, luật lệ, tài
chính, thương mại, xây dựng, canh nông, dệt và những cái mới khác thì
dần dần cũng có thể là cho nước mạnh dân giàu“ [11].
Ông đề nghị thành lập các khoa Nông chính, Thiên văn, đại lý, Công kỹ
nghệ, luật học... trong chương trình đào tạo người tài cho quốc gia.
Nếu những cải cách về giáo dục đó được thực hiện sẽ dần dần đào tạo được
một đội ngũ nhân sự có trình độ khoa học tham gia tích cực vào quá
trình cải cách kinh tế theo hướng phát triển nền sản xuất hiện đại.
Do
thực trạng học phong của nước ta lúc đó quá chú trọng mặt đạo đức và
chính trị, coi nhẹ mặt ứng dụng thực tiễn kinh tế, khoa học nên quan
điểm giáo dục của Nguyễn Trường Tộ tập trung vào hướng khắc phục mặt hạn
chế, thiếu sót của nền học thuật Nho giáo, nhấn mạnh tính cấp thiết
phải xây dựng một nền học thuật thực dụng đáp ứng yêu cầu mới của thời
đại, không đề cập tới giáo dục đạo đức, nhân cách. Vấn đề giáo dục, đào
tạo nguồn nhân lực đáp ứng với nhu cầu xây dựng và phát triển đất nước
là vấn đề luôn luôn được đặt ra ở những giai đoạn then chốt của mỗi dân
tộc. Phụ thuộc vào tính định hướng đúng đắn của nền giáo dục mà đất nước
có hay không có đội ngũ nhân sự đủ tài và đức gánh vác các trọng trách
phát triển đất nước. Đứng trên quan điểm hiện đại, chúng ta thấy Nguyễn
Trường Tộ đã tiên phong trong việc nắm bắt yêu cầu của lịch sử và thể
hiện tư duy xuất sắc trong đề nghị cải cách nền học thuật đương thời
theo hướng thực tiễn phương Tây, tuy rằng vẫn còn khoảng trống lý luận
về giáo dục đạo đức, nhân cách làm người trong những đề nghị cải cách
giáo dục này. Nền giáo dục của chúng ta hiện nay đã cải cách từng bước
được gần 20 năm, ngày càng sát hợp với yêu cầu thực tế về nguồn nhân lực
hơn. Tuy nhiên, những tàn dư của việc học không đi đôi với hành, học
lấy bằng cấp, học để làm quan, sự bất cập trong giáo dục đạo đức, nhân
cách… vẫn là những vấn nạn mà nền giáo dục mới phải đương đầu, đòi hỏi
phải có những bổ sung mới về mặt lý luận.
5.Tư duy kinh tế mới
Khi
đề nghị thi hành đường lối giáo dục thực dụng đối lập với nền giáo dục
Nho giáo xa rời thực tiễn, nhằm mục đích đào tạo những con người có tri
thức khoa học cụ thể, ứng dụng vào quản lý, thực hành nghề nghiệp, đem
lại lợi ích thực tế trong cuộc sống, là Nguyễn Trường Tộ đã đề xuất một
tư duy kinh tế mới, lấy lợi ích, lấy hiệu quả, lấy việc phát triển nguồn
của cải xã hội làm mục đích.
Nguyễn
Trường Tộ chống lại các tư tưởng coi thường việc làm giàu, trọng nghĩa
hơn lợi, trọng nông ức thương đã trở thành truyền thống trong xã hội
Việt Nam khi đó. Ông lấy chính kinh sách Nho giáo làm dẫn chứng rằng các
bậc tiền bối Nho giáo đều chú trọng việc khuyến khích người dân chăm lo
sản xuất ra của cải vật chất, làm giàu, để thuyết phục triều đình thi
hành các cải cách về kinh tế „Sách Luận ngữ nói làm cho giàu có rồi
mới giáo dục... sách Đại học nói đến làm cho sung túc của cải. Sách Mạnh
tử khi trình bày về đường lối nhân chính có nói đến hằng sản hằng
tâm... Đủ thấy những người nắm đường lối chính trị, không ai không sớm
lo giàu có“[12].
Đường lối kinh tế mà Nguyễn Trường Tộ đề nghị theo phương châm „Nếu
lợi cho dân thì không cứ phải theo xưa, nếu thích hợp thì không cứ phải
theo cũ, nếu học điều khôn thì không cứ là của địch hay của ta“[13].
Ông đề nghị ngoài việc thực hiện phát triển nông nghiệp, phải chú trọng
khai thác, phát triển các nguồn của cải, tài nguyên của đất nước: „Cái
tôi gọi là là cho có nhiều của ở đây không có nghĩa là nói bòn rút của
dân để làm cho nước giàu, mà là nhân nguồn lợi tự nhiên của trời đất để
sinh ra của. Do đó, nước giàu mà dân cũng giàu“[14].
Chính tư duy kinh tế đổi mới này là cơ sở lý luận để Nguyễn Trường Tộ
đề nghị một loạt các cải cách kinh tế cụ thể về khai thác khoáng sản,
phát triển ngoại thương, mời gọi đầu tư nước ngoài, cải cách nông
nghiệp, xây dựng các ngành cơ khí, sửa chữa tàu thuyền... .
Những
đề nghị cải cách kinh tế này nếu được thực thi sẽ đem lại nguồn cung
của cải xã hội ngày càng dồi dào, nâng cao nội lực kinh tế, dần dần đem
lại một nền tảng phát triển kinh tế mới cho đất nước. Những đề nghị cải
cách kinh tế này về thực chất không có gì khác hơn là nhằm thay đổi cơ
cấu kinh tế thuần nông nghiệp sang xây dựng một nền kinh tế nhiều ngành
nghề theo quy luật kinh tế hàng hoá. Mặc dù những đề nghị cải cách kinh
tế của Nguyễn Trường Tộ chưa phải là những kế hoạch hoàn chỉnh do không
tính tới các điều kiện khả thi về mặt kinh phí, nguồn nhân lực, điều
kiện chính trị-xã hội... nhưng rõ ràng, những đề nghị này thể hiện tầm
tư duy kinh tế vượt trước thời gian trong khuôn khổ bối cảnh Việt Nam.
Như lịch sử đã chứng minh, đó là con đường phát triển kinh tế tất yếu để
xây dựng một đất nước giàu mạnh.
Kết luận
140
năm trước, khi bản đồ chính trị thế giới đang nhanh chóng bị vẽ lại bởi
làn sóng thôn tính thuộc địa của các nước tư bản châu Âu, Việt Nam
trong tình trạng nội lực yếu kém, cô lập với thế giới đã bị đối mặt với
nguy cơ mất nước. Trong bối cảnh đó, ở Việt Nam đã xuất hiện nhiều kiểu
phản ứng với cuộc xâm lược của Pháp, hoặc là bán nước cầu vinh, hoặc là
bảo thủ lạc hậu, thụ động và đầu hàng từng bước, hoặc là anh dũng chiến
đấu trong cuộc chiến không cân sức. Đó đều là những cách phản ứng đã
từng xảy ra trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Duy nhất đường
lối canh tân của Nguyễn Trường Tộ là mang tính phi truyền thống. Ông đề
nghị nhượng bộ, hoà với Pháp, tận dụng thời thế để mở cửa ngoại giao,
thông thương, học tập khoa học kỹ thuật phương Tây, xây dựng nền kinh tế
chú trọng sản xuất hàng hoá để nâng cao sức mạnh vật chất và tinh thần
của dân tộc, đợi thời giành lại độc lập lâu dài cho đất nước. Tinh thần
yêu nước và tính đổi mới tích cực trong tư tưởng canh tân của Nguyễn
Trường Tộ là không thể phủ nhận.
120 năm sau, 1986, đất nước đứng trước áp lực gay gắt của thực tiễn „ở
trong nước, mô hình kinh tế phi thị trường và đơn nhất thành phần kinh
tế tỏ ra kém hiệu quả“, „từ phía quốc tế... nhiều sức ép đối với sự phát
triển kinh tế của Việt Nam cũng đã xuất hiện và gia tăng“. Trước thách thức mới, Đảng ta đã xác định „tính tất yếu của đường lối chuyển sang kinh tế thị trường, mở cửa, định hướng xã hội chủ nghĩa“[15], „kết
hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi
mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị“[16],
coi việc đổi mới tư duy lý luận trên các mặt kinh tế, chính trị, văn
hoá giáo dục, an ninh, quốc phòng, đối ngoại là kim chỉ nam cho công
cuộc đổi mới toàn diện đất nước nhằm mục đích bảo vệ, xây dựng và phát
triển vị thế độc lập của Việt Nam trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay.
So
sánh hai thời điểm lịch sử và tiến trình vận động của tư duy dân tộc,
chúng ta một lần nữa khẳng định những đóng góp và sức sống tư tưởng cải
cách của Nguyễn Trường Tộ cả về mặt lịch sử và thực tiễn hiện nay.
[1] Trương Bá Cần. Bàn về những tình thế lớn trong thiên hạ. Nguyễn Trường Tộ-Con người và di thảo.Nxb TPHCM. 1988. Tr.110.
[2] Nt, tr. 11.
[3] Sđd. Ngôi vua là quý chức quan là trọng. Tr. 175
[4] Sđd. Ngôi vua là quý, chức quan là trọng. Tr, 180
[5] Sđd. Bài trần tình. Tr. 123
[6] Sđd. Nên mở cửa chứ không nên khép kín. Tr. 408
[7] Nt, tr. 409.
[8]
Tiến sĩ Susan Shirk cựu Phó Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách Đông Á và
Thái Bình Dương từ 1997 đến 2000,cho biết ý kiến về quan hệ Việt –
Trung.“Trước hết tôi sẽ đề nghị [Việt Nam] hợp tác với Trung Quốc, một
điều mà Việt Nam đã làm. Không thách thức trực diện Trung Quốc.
Nhưng
mặt khác, tôi cũng sẽ đặt mình vào cơ cấu đa phương trong vùng, và duy
trì quan hệ tốt với các cường quốc như Mỹ, Nhật, Ấn Độ. Và có lẽ đó cũng
là điều Việt Nam đang làm.“,
„Nhưng
theo tôi, sẽ là sai lầm nếu Việt Nam nghĩ khả năng quân sự sẽ bảo đảm
có an ninh. Ngoại giao thông minh, nền kinh tế mạnh, sự ủng hộ của người
dân trong nước, có lẽ quan trọng hơn cho an ninh của Việt Nam“. BBC
Việt ngữ ngày 22/07/2008. BBCVietnamese.com.
[9] Tự Đức ngự chế thi tập. Tư liệu Viện Triết học, kí hiệu 44-AH. Tr. 64
[10] Sđd. Tám việc cần làm gấp. Tr. 251
[11] Nt. Tr. 150
[12] Sđd. Về chính sách nông nghiệp. Tr. 394
[13] Sđd. Kế hoạch làm cho dân giàu nước mạnh. Tr. 150.
[14] Nt. Tr. 141.
[15]
Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. PGS. TS. Tô Huy
Rứa, GS.TS. Hoàng Chí Bảo. PGS.TS. Trần Khắc Việt, PGS.TS. Lê Ngọc Tòng
(đồng chủ biên). Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986
đến nay. Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội 2008. Tr. 246- 248.
[16] Đảng Cộng sản Việt nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1996. Tr.71.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét