Tiến sĩ Nguyễn Minh San
QĐND - Thứ Tư, 18/03/2009, 17:44 (GMT+7)
Từ những năm đầu của thế kỷ 19,
ở Việt Nam có một vị quan văn trong triều đình Huế đã đề xuất và thực
thi nhiều biện pháp canh tân đất nước trên nhiều lĩnh vực, nhất là kinh
tế. Tư tưởng canh tân ấy của một nhà nho nước Việt đã xuất hiện trước
cuộc Cách mạng Duy Tân của người Nhật 5 năm và đi trước tư tưởng cải
cách của Khang Hữu Vy và một số sĩ phu Trung Quốc 7 năm. Vị quan ấy là
Phạm Phú Thứ.
Phạm Phú Thứ sinh năm 1820, người xã Đông Dư, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam,
thuộc dòng dõi nho học. Năm 22 tuổi, ông đỗ đầu kỳ thi Hương, năm sau
đỗ đầu kỳ thi Hội, rồi đỗ Tiến sĩ khoa thi Đình. Năm 1851, sau một
chuyến công du sang Trung Quốc, được tận mắt chứng kiến sự phát triển
của thương nghiệp tư bản ở mảnh đất tô giới Quảng Châu, ông đã nhen nhóm
tư tưởng canh tân phát triển kinh tế. Khi được bổ làm quan án sát tỉnh
Thanh Hóa, ông bắt đầu thực thi tư tưởng canh tân bằng các hoạt động
ngoại thương đường biển. Đặc biệt, ông còn kiến nghị triều đình cho phép
huy động thuyền buôn của dân thay thế tàu vận tải của nhà nước, chở gạo
các tỉnh về bán ở Kinh thành, để tàu của nhà nước đặc trách việc vận
chuyển hàng nặng và tuần tra bờ biển. Ông đề nghị nhà nước quy định biểu
cước phí hợp lý để trả công cho thuyền dân và biểu lãi suất tính theo
trọng lượng gạo và qui định lề lối kiểm tra chặt chẽ giá mua và giá bán.
Song, đáng tiếc là sáng kiến này của ông đã bị triều đình Huế bác bỏ.
Năm
1863-1864, Phạm Phú Thứ được triều đình tin tưởng giao giữ chức Phó sứ
cho Thượng thư Phan Thanh Giản sang Pháp thương thuyết để chuộc lại 3
tỉnh Nam Bộ. Nhiệm vụ phái bộ vô cùng nặng nề, chẳng khác gì lấy miếng
thịt trong miệng một con hổ đói. Cuộc đàm phán không thành. Người cầm
đầu phái bộ bị vua Tự Đức trách cứ. Phạm Phú Thứ bị truất chức quan. Với
một người luôn ưu thời mẫn thế, canh cánh một hoài vọng vươn tới sự
canh tân cho đất nước, thì cái mất chức đó không đáng là bao so với cái
được cho ông và cho dân tộc. Chuyến công cán ở Pháp và trên đường qua
nhiều nước châu Âu chính là dịp để Phạm Phú Thứ mở rộng tầm mắt. Ông vô
cùng kinh ngạc, khâm phục nền kỹ nghệ phương Tây. Song, không giống
những người khác ca ngợi kỹ nghệ phương Tây có thể “sánh với trời”, Phạm Phú Thứ không tự ti, ông cho rằng nếu phương Đông sớm giỏi về kỹ thuật nữa thì phương Tây chẳng thể hơn được. Ông viết:
“Tảo giao Đông thổ kiêm trường kỹ,
Pha lý, Long đôn vị túc hiền”
Dịch:
Giá phương Đông sớm cừ kỹ thuật,
Ba Lê, Luân Đôn chắc gì đã hơn ta.
Với
ý muốn học tập khoa học, kỹ thuật phương Tây để “lấy cái sở trường của
họ”, ông đã ghi chép cẩn thận những điều mắt thấy, tai nghe trong tập
Tây hành nhật ký. Ngoài giá trị văn chương, Tây hành nhật ký thực sự là
công trình khảo sát nghiêm túc (miêu tả tỉ mỉ, số liệu chính xác) về bức
tranh công nghệ tiên tiến của châu Âu bấy giờ. Ta có thể tìm thấy trong
Tây hành nhật ký từ máy điện báo đến hệ thống công trình lọc nước ngọt,
hệ thống trữ và dẫn nước mưa của Anh, xưởng khí đốt, xưởng bện dây
thừng tàu biển, xưởng thủy tinh, xưởng giấy hoa, nhà máy thuốc lá, nhà
nuôi tằm, xưởng tạc tượng, hiệu chụp ảnh, khinh khí cầu... đến các cơ sở
kỹ nghệ công nghiệp nặng như: tàu thủy, xe lửa, luyện kim, cơ khí, đóng
và sửa chữa tàu thủy, xưởng quân giới... của Pháp. Để diễn đạt được
những khái niệm bách khoa, những thuật ngữ khoa học kỹ thuật mới mẻ và
hoàn toàn xa lạ với người Việt Nam lúc bấy giờ bằng ngôn ngữ Hán cổ,
Phạm Phú Thứ đã phải sáng tạo một loại thuật ngữ khoa học tổng hợp bảo
đảm cả 3 yêu cầu: khoa học, dân tộc, hiện đại. Tây hành nhật ký cho thấy
Phạm Phú Thứ có óc tư duy khoa học, óc quan sát, khảo sát thực tế đến
kinh ngạc. Ông được xem là người đầu tiên có công xây dựng kho thuật ngữ
khoa học kỹ thuật ở nước ta. Phạm Phú Thứ trân trọng dâng thành quả của
mình lên nhà vua ngày 31-3-1864, đúng 2 ngày sau khi sứ bộ về đến Huế.
Nhưng tiếc thay, tác phẩm ấy đã bị Viện Cơ mật triều đình Huế “bảo mật”
gần 150 năm.
Trong
thời gian 9 tháng ở nước ngoài, ngoài Tây hành nhật ký, Phạm Phú Thứ
còn mang về một thứ vô cùng quý giá đối với những người nông dân nước
ta. Đó là mẫu vẽ chiếc bánh xe tát nước bằng sức trâu của người Ai Cập
được ông vẽ khi dừng chân ở Ai Cập. Về nước, ông cho người vẽ mẫu để phổ
biến cho các địa phương, trong đó có tỉnh Quảng Nam, quê ông, để nhân
dân áp dụng. Chiếc “xe trâu” này đã giúp người dân bớt được 15
lần công tát nước bằng gầu sòng trên diện tích 2 mẫu ruộng. Công cụ này
nhân dân còn áp dụng cho đến những năm 50 của thế kỷ XX với cái tên “xe
trâu”.
Tai
nghe, mắt thấy văn minh phương Tây, chứng kiến thành tựu khoa học vĩ
đại của nhiều nước, tư tưởng canh tân đất nước nói chung, tư tưởng kinh
tế nói riêng của Phạm Phú Thứ đã hình thành rõ nét và được hoàn thiện.
Ông dâng sớ phản ánh tư tưởng chính trị muốn đổi mới chính sách, mở rộng
giao lưu với bên ngoài để đất nước giàu mạnh. Trong một tờ tấu lên
triều đình, ông viết: Đối nội: nhà nước chẳng những cho phép mà còn
khuyến khích dân tự do buôn bán, tự do sản xuất. Đối ngoại thì cần mở
cửa. Mở cảng thông thương là điều không thể ngăn giữ được. Gương Trung
Quốc, Xiêm La (Thái Lan) mời đón khách buôn đến nhiều thì thu thuế vào
nhiều, đôi bên đều có lợi.
Không
chỉ giỏi tìm ra những kế sách canh tân đất nước, khi có điều kiện, Phạm
Phú Thứ đã mạnh dạn đưa những ý tưởng mới đó vào đời sống. Sau khi được
phục chức, được làm Tổng đốc Hải-Yên, Phạm Phú Thứ đã đề nghị lên trên
đồng thời vận động mấy tỉnh lớn ở ven sông Hồng bãi bỏ các trạm tuần ti
các cửa biển và cửa sông, để thông thương hàng hóa. Cùng với việc đề
nghị đánh thuế nấu rượu, thuế thuốc phiện và thuế đánh bạc, ông chủ
trương cho tự do buôn bán gạo (kể cả đối với thương nhân người Hoa) theo
đúng thuế biểu. Ông đề nghị quy định: thuyền chở tơ, gạo chỉ được vào
Cửa Cấm (Ninh Hải), không được cập cửa Trà Lý (Nam
Định). Ông cho khai rộng sông để thuận lợi cho việc vận tải, chủ trương
đối xử bình đẳng với thuyền buôn các nước. Ông nhờ lãnh sự Pháp dạy ta
về nghiệp vụ thương mại. Về công nghiệp, ông khuyến khích nhà giàu bỏ
vốn mở mang công nghệ, đề nghị miễn tạp dịch và đánh thuế nhẹ các hộ
tiểu thủ công. Ông đề nghị khai thác hơn 10 cơ sở mỏ sắt và than đá, cho
dân nghèo khai thác than ở Quảng Yên để giải quyết công ăn việc làm cho
dân, đồng thời tăng nguồn cung ứng cho xuất khẩu...
Mặc
dù bị không ít kẻ dập vùi, nhưng nhờ có tài, lại có đức, Phạm Phú Thứ
vẫn được triều đình trọng dụng. Ông làm quan đến chức Thượng thư bộ Hộ
sung thương chính đại thần. Để khuyến khích tinh thần kỹ nghệ của nhân
dân, ông cho khôi phục Nhà xuất bản Hải Học Đường (được thành lập từ
thời Gia Long, nhưng sau đấy đóng cửa), cùng với các quan tỉnh có nhiệt
tình in lại một số sách khoa học, kỹ thuật phương Tây được các giáo sĩ
phương Tây và Trung Quốc viết hoặc dịch ra chữ Hán. Phạm Phú Thứ còn
viết một số sách khoa học thực nghiệm, bước đầu phổ cập một số kiến thức
khoa học và kỹ thuật của phương Tây như: Bác vật tân biên (nói về khoa
học vật lý), Khai môi yếu pháp (phương pháp khai mỏ), Hàng hải kim châm
(chỉ dẫn về kỹ thuật hàng hải), Vạn quốc công pháp (luật giao thiệp quốc
tế)...
Tiếc
thay, những kế sách Duy Tân, đi trước thời đại của Nguyễn Trường Tộ,
Bùi Viện, Phạm Phú Thứ... lần lượt bị che khuất bởi mây mù trong mắt
những “quân vương” thời ấy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét