Thứ Sáu, 2 tháng 3, 2012

Tiểu sử Nguyễn Lộ Trạch


Nguyễn Lộ Trạch (Quý Sửu 1853 - Mậu Tuất 1898) Nhà cách tân đất nước, tự là Hà Nhân, hiệu Kỳ Am, biệt hiệu Quỳ Ưu, Hồ Thiên Cư Sĩ, Bàn Cơ Điếu Đồ, quê ở làng Kế Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Xuất thân trong một gia đình khoa bảng, thân phụ là Tiến sĩ giữ chức Tổng đốc hàm Thượng thư, nhạc phụ là Tiến sĩ Phụ chính Đại thần. Ông học rộng biết nhiều, ghét lối từ chương nên không đi thi, chỉ chú tâm vào con đường thực dụng. Ông thường giao du với những người có tư tưởng tiến bộ, chấp nhận cái mới. Năm 1877, nhân một kỳ thi Đình có đề ra nói về thời sự, ông ở ngoài làm bài và dâng một bản Thời vụ sách nêu lên những yêu cầu bức thiết của nước nhà nhưng không được chấp nhận.
Năm 1882, Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ hai, ông lại dâng bản Thời vụ sách II gồm 5 điều cốt yếu để bảo vệ đất nước, trong đó có điểm Dời đô về Thanh Hóa lấy chỗ hiểm yếu để giữ vững gốc nước. Triều đình Tự Đức vẫn không chấp nhận những ý kiến gan ruột của ông. Năm 1892 triều Thành Thái, nhân kỳ thi Đình có ra đề hỏi về "đại thế toàn cầu". Ông lại dâng lên bản Thiên hạ đại thế luận (Bàn chuyện lớn trong thiên hạ), nhưng vẫn bị bỏ qua. Tuy vậy bản Thiên hạ đại thế luận lại được sĩ phu và những người có tư tưởng cách tân nhiệt liệt hưởng ứng, bái phục tài năng xuất chúng của ông. Nguyễn Lộ Trạch được xem là nhà cách tân đất nước tiêu biểu của thế kỷ XIX. Chỉ tiếc rằng ông bị bệnh mất sớm ở tuổi 45, tại tỉnh Bình Định khi tài năng đang độ phát tiết, (năm 1957, con cháu trong dòng họ đã cải táng đưa di cốt ông về yên nghỉ tại nghĩa trang của làng Kế Môn, quê ông).
Các chí sĩ như Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Vũ Phạm Hàm, Trương Gia Mô, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, đều tiếc thương và cảm phục một tài năng. Ngoài các văn bản Thời vụ sách, Thiên hạ đại thế luận, Kế Môn dã thoại, ông còn để lại khá nhiều thơ, văn như bản Quỳ Ưu tập. Văn của ông đến như cụ Huỳnh Thúc Kháng cũng phải kính nể và phong ông là "Văn hào" của nền văn hóa Việt Nam. Lăng mộ ông táng tại độn cát phía Tây của làng Kế Môn, năm 2001 đã được Nhà nước công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia. Phủ thờ Chưởng cơ Quận Công (con thứ 18 của chúa Nguyễn Phúc Chu), Miếu Cây thị (miếu thờ Mẫu của làng dưới gốc cây thị cổ gần 200 năm ( theo nhà nghiên cứu Tôn Thất Quỵ),
Mộ Nguyễn Lộ Trạch
Địa điểm: Ðộn Cát, làng Kế Môn, xã Ðiền Môn, huyện Phong Ðiền, tỉnh Thừa Thiên Huế, được nhà nước công nhận là di tích quốc gia tại quyết định số 52/2001/QÐBVHTT ngày 28-12-2001
Nguyễn Lộ Trạch tự Hà Nhân, hiệu Kỳ Am, sinh ngày 15-2-1853 tại Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Quê làng Kế Môn, huyện Phong Ðiền, tỉnh Thừa Thiên. Sinh ra và lớn lên dưới triều Vua Tự Ðức (1848-1883), trong tình hình đất nước đầy biến động phức tạp, Nguyễn Lộ Trạch đã thể hiện rõ tư tưởng canh tân đất nước qua ba tác phẩm nổi tiếng "Thời vụ sách thượng"; "Thời vụ sách hạ" và "Thiên hạ đại thế luận". Nguyễn Lộ Trạch mất năm 1895 và an táng tại tỉnh Bình Ðịnh. Năm 1957 con cháu cải táng đưa về quê nhà.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét