Thứ Sáu, 2 tháng 3, 2012

Tiểu sử Phạm Phú Thứ

Danh sĩ, danh thần Phạm Phú Thứ triều Nguyễn, lúc nhỏ có tên là Hào, đi học lấy tên là Thứ, đến khi đỗ đại khoa, được vua Tự Đức (嗣 德; 1829–1883) đổi tên là Thứ, tự là Giáo Chi, hiệu là Trúc Đường (nhà tre), biệt hiệu là Giá Viên (vườn mía) và hai biệt hiệu ít dùng là: Thúc Minh (bó cái sáng lại) và Trúc Ẩn (núp trong tre). Quê ở làng Đông Bàn, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam, nay là xã Điện Trung, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Tổ tiên năm đời của ông vốn là họ Đoàn, gốc miền Bắc, vào ở xã Đông Bàn, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, mới đổi họ là Phạm Phú. Từ đó cho đến những thế hệ sau, dòng họ Phạm Phú này chỉ là nhà nông khuôn mẫu có tiếng đức hạnh, thương người nghèo khó trong làng. Qua các đời, tuy có người làm quan võ, có người thông chữ, nhưng chưa phát về khoa danh. Đến đời trước kề đời ông, mới có hai người chú ruột đỗ tú tài cùng một khoa và làm chức quan nhỏ.
Thân phụ của ông tên húy là Phú Sung, thân mẫu là Phạm Thị Cẩm, người làng Trừng Giang là con gái một cụ đồ. Ông mồ côi mẹ từ thuở lên bảy. Ông cùng anh em thờ song thân rất chí hiếu. Ông bẩm tính thông minh, ham mê học tập, đọc sách xem qua một lần là thuộc, nên từ lúc mười hai tuổi, đã nổi tiếng ở trường Phủ và khi lớn lên, liên tiếp đạt những thành tích rực rỡ trong thi cử: đỗ đầu xứ, giải nguyên, hội nguyên.
Sau khi, thi đỗ, ông vinh qui năm 1844 và được bổ làm quan tại triều với chức Hành tẩu ở Nội các. Năm sau, thăng tri phủ Lạng Giang (thuộc tỉnh Bắc Ninh).
Năm Tự Đức 2 (1849), ông được đề bạt làm chức Khởi cư chú (thư ký ghi lời nói và hành động của vua) ở Viện Tập hiền rồi ở toà Kinh diên (phòng giảng sách cho vua). Tại đây, vì thấy vua trẻ ham vui chơi, lơ là triều chính, trong lúc đất nước bắt đầu bị đe dọa bởi giặc ngoài, ông mạnh dạn dâng sớ can gián nhà vua với những lời lẽ thiết tha và thẳng thắn. Ông phải trả một giá đắt: bị cách chức và đày khổ sai cắt cỏ ngựa ở trạm Thừa Nông (phía nam Huế) vì tội phạm thượng. Bạn bè thân thích - trong lúc đó có ông hoàng thúc Thương Sơn nhiều người lo cho số phận của ông, nhưng ông vẫn tự tin về việc làm của mình: lúc rỗi câu cá, ngắm cảnh, làm thơ, nên có biệt hiệu là Nông giang điếu đồ (người câu trên sông Nông) và sáng tác tập thơ Nông giang thi lục ông làm quen với một số nhân sĩ Trung Hoa và cũng là một dịp tốt để cho một người ham hiểu biết nhằm phóng tầm mắt đến Ma Cao và Hồng Kông là hai trung tâm mậu dịch quốc tế lớn vào thời đó.
Năm 1852, ông được khôi phục hàm biên tu (hàm lúc sơ bổ) và năm 1854, được cử làm tri phủ Tư Nghĩa thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Tại đây, ông tổ chức và vận động dân chúng lập được hơn năm mươi kho nghĩa thương để lo cứu tế cho dân gặp lúc hạn hán, bão lụt tại nhiệm sở (Tư Nghĩa). Với việc làm đó ông được đề bạt giữ chức Viên ngoại bộ Lễ năm 1855, được điều sang công tác quân sự để giải quyết cuộc bạo động của người Thượng ở Đá Vách (thuộc tỉnh Quảng Nghĩa). Sau khi hoàn thành nhiệm vụ ông được thăng chức án sát sứ (chánh án) tỉnh Thanh Hóa (1856), rồi Hà Nội (1857).
Năm 1858, ông được chuyển về làm việc ở Nội các. Lúc bấy giờ, tàu chiến Pháp và Tây Ban Nha vào bắn phá cửa Đà Nẵng lần thứ ba (lần thứ hai năm 1856) và lần này tàn khốc hơn hai lần trước nhiều. Khi đó, ông dâng sớ xin các quan lại, thân sĩ quê Quảng Nam, đang làm việc tại Kinh về tỉnh nhà lập đội Nghĩa quân chống giặc ngoại xâm, nhưng không được vua Tự Đức chấp thuận. Năm 1858, nhân chuyến về quê dưỡng bệnh và cải táng mộ thân sinh, khi trở về triều ông dâng sớ xin đắp đê Cu Nhí, đào sông Ái Nghĩa đồng thời xây dựng công sự bố phòng và luyện tập quân sự ở tỉnh nhà nhằm bảo vệ hải cảng Đà Nẵng.
Năm 1860, từ Nội các, ông được thăng chức Thị lang bộ Lại (nội vụ) rồi sau đó thăng chức Thự Tả Tham tri bộ.
Vào hạ tuần tháng tư năm 1862, ông được cử làm Khâm sai đại thần vào Gia Định cùng với hai vị chánh phó toàn quyền đại thần Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp (hai người kí hoà ước với Pháp năm Nhâm Tuất (1862)) đàm phán với thống soái Pháp nhằm trì hoãn việc phê chuẩn hoà ước mới kí. Nhưng cuộc đàm phán không đạt được kết quả nên ông bị liên đới trách nhiệm, bị giáng một bậc, song vẫn giữ chức cũ.
Trong năm 1862, ông được cử làm phó sứ, cùng với chánh sứ Phan Thanh Giản và bồi sứ (sứ thứ ba) Ngụy Khắc Đản, sang Pháp và Tây Ban Nha với nhiệm vụ xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Trong khi ở Pháp phái bộ và ông còn đi thăm các nước ở Châu Âu như: Tây Ban Nha, Anh Cát Lợi, Bồ Đào Nha... Khi về nước lúc sứ bộ lưu tại Gia Định, Nguyễn Trường Tộ đã gặp ông và đưa ba bản điều trần quan trọng, kèm theo một bản đồ thế giới với bản trần tình để ông dâng lên Triều đình sau chuyến công du trở về.
Về đến Huế, ông dâng lên triều đình và vua Tự Đức một số tài liệu cùng bản tường trình trong chuyến công cán, trong đó có Tây hành nhật kí và tập Tây phù thi thảo (tập này sau được xếp vào quyển 8/26 của bộ Giá Viên toàn tập) ghi chép những điều tai nghe mắt thấy và những cảm nghĩ về văn minh phương Tây, nhằm thuyết phục nhà vua mạnh dạn canh tân đất nước hầu theo kịp văn minh thế giới. Sau đó, ông được thăng thực thụ hàm Tả Tham tri (bộ Lại) và được cử vào Viện cơ mật (cơ quan đầu não của Triều đình), kiêm trông coi Viện Tập hiền. Ở cương vị này, ông dâng lên triều đình nhiều đề nghị cải cách có ý nghĩa tích cực; đồng thời nhắc lại, cụ thể hóa, bổ sung những kiến nghị của Nguyễn Trường Tộ năm 1863, nhằm làm cho dân giàu, nước mạnh: nội dung các đề nghị trên gồm các vấn đề:
– Ban bố sách của Nhà nước để việc học hành được thiết thực.
– Lập khoa thủy học (hàng hải) để chấn chỉnh việc quản lí ghe thuyền.
– Dịch sách nước ngoài để theo dõi tình hình thế giới.
– Khuyến khích các nghề thủ công, cho tự do dùng sắt, gỗ.
– Cấm người Hoa buôn bán gạo, bỏ thuế nấu rượu, giảm các khoản chi phí về tuần tra ngoài biển.
– Mở rộng việc buôn bán với nước ngoài.
– Khai thác quặng và than đá.
...
Những đề nghị trên, vua Tự Đức và triều đình có bàn bạc, nhưng lúc đó ở trong triều có nhiều nhân vật thủ cựu, mù quáng không thấy được văn minh phương Tây nên rốt cuộc chẳng thực hiện được gì mấy.
Năm 1865, ông được thăng chức Thự Thượng thư (Bộ trưởng) bộ Hộ (Tài chánh), đồng thời sung chức Cơ mật viện đại thần. Trong thời gian này tuy bận công vụ quan trọng ông vẫn đề ra hai chủ trương nhằm bảo vệ biên giới phía Tây Tổ quốc:
– Đặt Nha Thương Chánh ở Ninh Hải và cùng với lãnh sự Pháp mở cảng ngoại thương (lịch sử cảng Hải Phòng chính thức bắt đầu từ đây).
– Khai rộng sông ở Bình Giang.
– Mở trường học tiếng Pháp ở Ninh Hải (đây là trường ngoại ngữ đầu tiên do chính quyền mở trên đất nước ta).
Năm Nhâm Ngọ (1882), ông mất, hưởng thọ 61 tuổi.
Vua Tự Đức thương tiếc ông và có lời dụ: “Phú Thứ kinh lịch nhiều khó nhọc, đi đông sang Tây, dẫu yếu đuối cũng vâng mệnh không dám từ chối. Về việc trông coi Thương chánh ở Hải Dương, khi tới nơi công việc đều có manh mối, sau này nên lấy đó noi theo. Những lưu dân, gian phỉ chứa ác ở Quảng Yên, Thứ tới kinh lí cũng được yên. Rồi mở đồn điền ở Nam Sách, thực là lo xa chu đáo, đó là công cán ngày thường rực rỡ đáng nêu.
Gia ơn cho truy phục nguyên hàm Thự Hiệp Đại học sĩ và chuẩn cho thực thụ cũng sắc cho địa phương tới tế một tuần”.
Di hài của ông được an táng tại quê nhà (làng Đông Bàn, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Phần mộ của ông hiện nay được trùng tu rất khang trang.


Tác phẩm
Ông là tác giả các sách:
Tây phù thi thảo.
Giá Viên toàn tập.
Thuật Tiên đức.
Trúc Đường tiên sinh thi văn tập.
Bản triều liệt thánh sự lược toản yếu.
Lịch triều thống hệ niên phả toản yếu.
Bác vật tân biên (Sách khảo về các môn khoa học tự nhiên).
Khai môi yếu pháp (Phương pháp khai mỏ).
Hàng hải kim châm (Kỹ thuật đi biển).
Vạn quốc công pháp (Công pháp các nước).
Tây hành nhật kí (Nhật ký đi Tây).
Tương truyền kiểu xe nước ngày nay còn thông dụng ở các tỉnh miền Trung là loại xe nước ở Ai Cập vào thế kỉ trước do ông vẽ lại mang về áp dụng vào thời điểm ấy.
Riêng bộ Giá Viên toàn tập (26 quyển) do ông soạn đóng thành 6 cuốn.
Đây là một phần lớn thơ văn của ông trong suốt chặng đường làm quan của mình. Đọc bộ này có thể biết khá rõ về cuộc đời và một giai đoạn lịch sử thời của ông.
Đầu sách đề: Giá Viên toàn tập, bên phải đề: Quảng Nam Đông Bàn Trúc Đường Phạm Văn Ý công trứ, bên trái đề: Quảng Nam tỉnh án sát sứ Nguyễn Tiểu Cao Văn Mại; Quảng Trị tỉnh án sát sứ Trương Doãn Tân, Trọng Hữu, kiểm tập. Trang sau ghi tên các vị phê bình tập thơ, có đến tám người là: Tùng Thiện vương Nguyễn Miên Thẩm, tuần phủ Trần Thiện Chánh, Tuy Lý vương Nguyễn Miên Trinh, tiến sĩ Nguyễn Văn Lý, hiệp biện Phan Thanh Giản, bố chánh sứ Nguyễn Thông (hiệu Kì Xuyên), thượng thư bộ Lại Nguyễn Tư Giản (hiệu Vân Lộc).
Thứ đến các bài tựa:
– Bài tựa của Thương Sơn Nguyễn Miên Thẩm đề năm Tự Đức thứ 14 (1861).
– Bài tựa của tiến sĩ triều Thanh là Hoàng Tự Nguyên.
– Bài tựa của Nguyễn Trọng Hợp đề năm Thành Thái thứ 5 (1893).
– Bài tựa của Trương Quang Đản đề năm Thành Thái thứ 8 (1896).
– Bài dụ của Tự Đức năm thứ 34 (1881).
– Bài văn tế của Tự Đức (1882).
– Bài bi minh của Nguyễn Tư Giản đề năm Tự Đức thứ 35 (1882), bài này nói đầy đủ hành trạng của Phạm Phú Thứ.
– Các câu đối và thơ viếng.
– Bài tựa của Nguyễn Thượng Phiên.
– Bài bạt của Trần Giản Thư, người triều Thanh (Trung Quốc).
Sau phần tựa, bạt có chân dung Phạm Phú Thứ do kí lục Tòa khâm sứ là Nguyễn Văn Nhận vẽ lại theo ảnh chụp khi ông đi sứ sang Paris.
Toàn tập gồm hai phần: Thơ và Văn, Về thơ, có tập riêng như:
1. Ứng chế thi thảo (quyển 1)
2. Bắc hành thi lục (quyển 2)
3. Nông giang thi lục (quyển 3)
4. Đông hành thi lục (quyển 4)
5. Kinh hương thi lục (quyển 5 và 7, 9, 10, 11)
6. Nam hành thi lục (quyển 6)
7. Tây phù thi lục (quyển 8)
8. Hàm giang thi lục (quyển 12)
9. Tĩnh hậu thi lục (quyển 13)
Bắt đầu từ quyển 14 là Văn, có đủ các loại chương tấu, tự, khải, v.v... Toàn bộ sách Giá Viên toàn tập vừa là tài liệu thơ văn chữ Hán của nước ta về đời Tự Đức, vừa là tài liệu tham khảo về sử cận đại Việt Nam. Nói rộng ra, một số bài văn của Phạm Phú Thứ đã phản ánh được sự biến chuyển về tư tưởng của phái Nho học thời đó sau khi đã đi qua Âu châu về.
Toàn tập có thơ đề của Tuy Lý vương như sau:
Gian tân đương nhật phụng hoàng hoa,
Di thảo phiên lai tụng thán ta.
Truyền hậu tín hề suy cựu thủ,
Tạc không hưu ngộ Hán thần tra.
Dịch thơ:
Ngày vâng sứ mạng thực gian truân,
Di thảo xem xong cảm bội phần.
Tin thực lưu truyền tay cự phách,
Phải đâu sứ Hán chuyện vô căn.
Tuy Lúy vương


Danh thần triều Nguyễn: Phạm Phú Thứ



...Ông Thứ còn bỏ liêm bổng ra mua 1.000 phương gạo gửi về chia ra phát chẩn cho dân đói ở Quảng Nam, nhân đó cứu sống được nhiều người...

Phạm Phú Thứ (chữ Hán: 范富恕; 1821-1882), trước tên là Phạm Hào (khi đỗ Tiến sĩ, được vua Thiệu Trị đổi tên là Phú Thứ), tự: Giáo Chi, hiệu Trúc Đường, biệt hiệu: Giá Viên; là một đại thần triều nhà Nguyễn, và là một trong số người có quan điểm canh tân nước Việt Nam trong những năm nửa cuối thế kỷ 19.

I. Thân thế:
Phạm Phú Thứ sinh năm Tân Tỵ (1821) tại làng Đông Bàn, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam (nay thuộc thôn Nam Hà 1, xã Điện Trung, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam).

Ông xuất thân trong một gia đình Nho giáo, có tiên tổ từ Trung Quốc sang. Cha ông là Phạm Phú Sung, mẹ ông là Phạm Thị Cẩm (người làng Trừng Giang, và là con gái một ông đồ).

Nhà nghèo, mẹ mất sớm (lúc ông 7tuổi), nhưng nhờ thông minh, chăm chỉ, và từng được Tùng Thiện Vương (Miên Thẩm) dạy dỗ, nên ông Thứ sớm có tiếng là người học giỏi.

II. Thi đỗ, làm quan:
Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), Phạm Phú Thứ dự thi Hương, đỗ Giải nguyên khi mới 21 tuổi. Năm sau (Quý Mão, 1843), dự thi Hội, ông cũng đỗ đầu (Hội nguyên). Khi vào thi Đình, ông đỗ luôn Tiến sĩ cập đệ [1].

Buổi đầu (1844), ông được bổ làm Biên tu. Năm sau (1845), thăng ông làm Tri phủ Lạng Giang (nay thuộc tỉnh Bắc Giang), rồi thăng làm Thị Độc. Một thời gian sau, vì có tang cha, ông xin nghỉ chức.

Năm Tự Đức 2 (1849), ông được chuyển qua Viện Tập hiền làm chức Khởi cư chú (thư ký ghi lời nói và hành động của vua), rồi sang tòa Kinh diên (phòng giảng sách cho vua).

Năm 1850, thấy nhà vua ham vui chơi, lơ là việc triều chính, ông mạnh dạn dâng sớ can gián, nên bị cách chức và giam ở nhà lao Thừa Phủ (Huế). Xét án, triều đình khép ông vào tội đồ (đày đi xa); song nhà vua cho rằng đó chỉ là "lời nói khí quá khích, không nở bỏ, nhưng răn về (tính) nóng bậy", nên ông chỉ bị đày làm “thừa nông dịch” (lính trạm chuyên chạy về việc canh nông) ở trạm Thừa Nông (Huế).

Năm 1852, ông được khôi phục hàm Biên tu (hàm lúc sơ bổ). Năm 1854, cử ông làm Tri phủ Tư Nghĩa thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Tại đây, ông tổ chức và vận động dân chúng lập được hơn năm mươi kho nghĩa thương để phòng khi chẩn tế cho dân. Với việc làm đó, ông được cử giữ chức Viên ngoại lang ở bộ Lễ.

Năm 1855, ông được điều sang công tác quân sự để giải quyết cuộc bạo động của người Thượng ở Đá Vách (thuộc tỉnh Quảng Ngãi). Sau khi dẹp yên, ông được thăng chức Án sát sứ ở hai tỉnh là Thanh Hóa và Hà Nội.

Năm 1858, ông được chuyển về làm việc ở Nội các tại Huế.

Năm 1859, ông xin về quê để dưỡng bệnh và cải táng mộ cha. Khi trở lại triều, ông dâng sớ xin đắp đê Cu Nhí, đào sông Ái Nghĩa, đồng thời xây dựng công sự bố phòng và luyện tập quân sự ở tỉnh nhà (Quảng Nam).

Năm 1860, từ Nội các, ông được thăng chức Thị lang bộ Lại, rồi thăng làm Thự Tham tri của bộ này.

Đầu năm 1863, sau khi vua Tự Đức xét trong mấy điều khoản trong Hòa ước Nhâm Tuất còn có chỗ chưa thỏa, liền sung Phạm Phú Thứ làm Khâm sai vào ngay Gia Định, hội với Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp (hay Thiếp) để đàm phán với quan soái Pháp và quan đại thần nước Y Pha Nho (Tây Ban Nha). Không hoàn thành nhiệm vụ, ông phải bị giáng một cấp. Tháng 5 (âm lịch) năm này, ông được cử làm Phó sứ, cùng với Chánh sứ Phan Thanh Giản và Bồi sứ Ngụy Khắc Đản, sang Pháp và Tây Ban Nha với nhiệm vụ xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ.

Tháng 2 (âm lịch) năm 1864, sứ bộ về đến Huế. Sau đó, ngoài bản tường trình cốt để thuyết phục vua Tự Đức mau “cải cách việc học tập và phát triển công nghiệp”, Phạm Phú Thứ còn dâng lên vua hai tác phẩm do ông làm trong chuyến đi, đó là Tây hành nhật ký và Tây Phù thi thảo. Vua xem cảm động, có làm một bài thơ để ghi lại việc này. Được tin cậy, nhà vua thăng ông làm Tham tri bộ Lại.

Năm 1865, thăng ông chức Thự Thượng thư bộ Hộ, sung Cơ mật viện đại thần. Ở chức việc này, ông đã mật tâu xin đặt 4 Tuyên phủ sứ ở Quảng Trị, Bình Định, Nghệ An và Hưng Hóa; đồng thời xin đặt “trường giao dịch chợ búa, sửa thuế thương chính, lập thổ tù” ở các nơi ấy để làm “mạnh vững nơi biên phòng, nhưng việc rút cục không thành”.

Năm 1866, quan soái Pháp phái tàu đến cửa Thuận An (Huế) đưa thư đòi “quản luôn ba tỉnh là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên”, vì ở đây “bọn trộm cướp thường qua lại”. Nhà vua liền sai Phạm Phú Thứ và Phan Huy Vịnh đến “xin giữ giao ước cũ lâu dài”.

Năm 1867, Phan Thanh Giản mất, triều đình cử Phạm Phú Thứ làm người điều đình với Pháp. Song thực dân Pháp không hài lòng về cách xử sự cứng rắn của ông, còn triều đình Huế thì không hài lòng vì việc thương lượng cứ đỗ vỡ. Cuối cùng, ông bị Ngự sử đàn hặc, và bị gọi về kinh "hậu cứu".

Năm 1873, vì phạm lỗi, ông lại bị giáng làm Thị lang, rồi khai phục chức Tham Tri.

Năm 1874, triều đình cho mở nhà thương chính ở Bắc Kỳ. Nhà vua cho ông “là người am hiểu, và có tài cán lão luyện”, nên tháng 10 (âm lịch) năm đó, đổi ông làm Thự Tổng đốc Hải Yên (còn gọi là Hải An, gồm Hải Dương và Quảng Yên), kiêm sung Tổng lý thương chánh Đại thần. Đến nơi, gặp lúc đê huyện Văn Giang (nay thuộc Hưng Yên) vỡ, nước lũ tràn cả hai phủ là Bình Giang và Ninh Giang thuộc Hải Dương. Thấy dân đói khổ, ông lập tức xin trích năm vạn phương gạo ở kho Hưng Yên để phát chẩn. Đồng thời, lại phái thuộc hạ đem những người dân còn khỏe mạnh đến Đông Triều, Nam Sách...khẩn hoang, cày cấy kiếm sống.

Năm 1876, chuẩn cho Phạm Phú Thứ được thực thụ chức Tổng đốc Hải An. Để yên dân, ông xin đặt trường mua gạo ở chợ An Biên (thuộc huyện An Dương, Hải Phòng) và Đồ Sơn (thuộc huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh); đồng phái Thương biện là Lương Văn Tiến (anh em họ ngoại với Phú Thứ) đi hiểu dụ lưu dân, tạo công ăn việc làm cho họ, để họ thôi “càn rỡ, ngang ngược”. Ngoài ra, ông còn cho khai rộng sông ở phủ Bình Giang, mở Nha Thương Chánh và trường học chữ Pháp ở Hải Dương vào năm 1878, v.v....

Năm 1878, thăng ông làm Thự Hiệp biện Đại học sĩ, song vẫn lĩnh chức vụ cũ. Cũng trong năm này, Khâm phái ngự sử là Dương Hoàn tâu lên rằng: "Lương Văn Tiến (lúc này đang làm Giám đốc việc tuần phòng ngoài biển) cậy thế chở gạo ra ngoại quốc"...Vì vậy, Phạm Phú Thứ phải về Huế, để chữa bệnh và đợi án. Năm 1880, khi bản án dâng lên, ông bị giáng lám Quang lộc tự khanh, lĩnh chức Tham tri bộ Binh. Nhân có bệnh, ông xin về quê.

III. Qua đời:
Tháng 12 (âm lịch) năm 1881, nước Tây Ban Nha dâng tặng khánh vàng hạng nhất, đồng thời gửi tặng khánh vàng cho các quan đại thần là Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường, Hoàng Diệu và ông.

Năm Tự Đức thứ 35 (Nhâm Ngọ, 1882), Phạm Phú Thứ mất tại quê nhà “giữa những ngày u ám nhất của vận mệnh chế độ phong kiến nhà Nguyễn”, thọ 61 tuổi.

Nghe tỉnh thần tâu lên, vua Tự Đức thương tiếc ban dụ, trong đó có đoạn: “Phú Thứ kinh lịch nhiều khó nhọc, đi đông sang Tây, dẫu yếu đuối cũng vâng mệnh không dám từ chối. Về việc trông coi Thương chính ở Hải Dương, khi tới nơi công việc đều có manh mối, sau này nên lấy đó noi theo. Những lưu dân, gian phỉ chứa ác ở Quảng Yên, Thứ tới kinh lý cũng được yên. Rồi mở đồn điền ở Nam Sách, thực là lo xa chu đáo, đó là công cán ngày thường rực rỡ đáng nêu. Gia ơn cho truy phục nguyên hàm Thự Hiệp biện Đại học sĩ và chuẩn cho thực thụ, cũng sắc cho địa phương tới tế một tuần” [Chính biên, tr. 758]. Theo GS. Trần Văn Giáp, thì sau đó ông còn được ban tên thụy là Văn Ý công.

Sinh thời, ông thường giao thiệp với các thi nhân có tiếng lúc bấy giờ như anh em Tùng Thiện Vương, Phan Thanh Giản, Trương Đăng Quế, Bùi Văn Dị, v.v...

IV. Tác phẩm:
Tác phẩm của Phạm Phú Thứ toàn bằng chữ Hán, gồm có:

■Tây phù thi thảo (Bản thảo tập thơ đi sứ phương Tây)
■Tây hành nhật ký (Nhật ký đi sứ phương Tây). Tập văn này và tập thơ trên, ghi lại khá tỉ mỉ những điều mắt thấy tai nghe về kinh tế, chính trị, phong tục, tập quán của người phương Tây, trong chuyến đi sứ dài ngày vào năm 1863.
■Trúc Đường thi văn tập (Tập thơ văn của Trúc Đường)
■Giá Viên toàn tập (Toàn tập Giá Viên). Cả thảy có 26 quyển: 13 quyển thơ, 13 văn; gồm đủ các thể loại thơ, tấu, phú, văn tế, ký...
■Bản triều liệt thánh sự lược toản yếu
■Thuật tiên đức
■Lịch triều thống hệ niên phả toát yếu

Ngoài ra, ông còn cho khắc in để phổ biến một số sách thực dụng do người Trung Quốc dịch từ sách tiếng Anh ra chữ Hán, như: Bác vật tân biên (sách nói về khoa học), Khai môi yếu pháp (sách nói về cách khai mỏ), Hàng hải kim châm (sách nói về cách đi biển), Vạn quốc công pháp (sách nói về cách thức giao thiệp quốc tế), góp phần vào tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch....
Nhận thấy đây đều là những sách cần thiết, tháng 3 nhuận (âm lịch) năm 1879, vua Tự Đức đã “khiến quan tỉnh Hải Dương (chỉ Phạm Phú Thứ) in cho nhiều mà bán, để quan lại và học trò học tập. Đến tháng 7 nhuận (âm lịch) năm 1881, lại khiến tỉnh Hải Dương khắc in 4 bộ sách ấy để ban cấp cho các trường học trong ngoài” [Quốc triều sử toát yếu, phần "Chính biên", tr. 485-486].

V. Được khen ngợi:
V.1. Là một viên quan tốt:
Sử nhà Nguyễn chép:
"(Phú Thứ) dẫu làm làm quan xa, mà tình trạng chốn quê quán chưa từng không quan tâm. Như khi ở Hải Đông, hạt Quảng Nam luôn năm đói kém, mà việc tuần phòng ở ngoài biển thì gạo cấm khá nghiêm, bèn thương lượng tạm bỏ điều cấm (ấy), hoặc quyền nghi cho thuyền chốn người Thanh, người Kinh chở gạo Bắc về Quảng Nam phân tán phát mại. Ông còn bỏ liêm bổng ra mua 1.000 phương gạo gửi về chia ra phát chẩn cho dân đói ở huyện hạt, nhân đó cứu sống được nhiều người, đến nay người vẫn nhớ"...[Chính biên, tr 758].

Thiếu tướng Đỗ Mậu trong hồi ký của mình cũng đã viết rằng:
"Cụ Phạm Phú Thứ là một nhà nho tuy ra làm quan...nhưng cụ luôn hành xử một cách thanh liêm, cương trực, và từng tỏ thái độ bất khuất đối với người Pháp, nên được giới sĩ phu và nhân dân miền Trung hết lòng ngưỡng mộ" [2].

V. 2 Là một nhà thơ có tài:
Nói về thơ của Phạm Phú Thứ, trong Từ điển bách khoa toàn thư, có đoạn: "Một số bài thơ trong “Giá Viên thi tập” bộc lộ cảm xúc của người chưa quên mình “vốn là học trò nghèo ở thôn quê”, chia sẻ nỗi vui buồn với ngư dân, nông dân trong cuộc sống hằng ngày của họ". Từ điển văn học (bộ mới) có nhận xét tương tự, đồng thời cũng nói thêm rằng “chính từ những tình cảm lành mạnh ấy, ngay lúc sinh thời, thơ văn ông đã được nhiều người tán thưởng”.

V. 3 Ghi công:
Hiện nay, lăng mộ Phạm Phú Thứ ở tại quê nhà tại làng Đông Bàn, đã được chính quyền địa phương cùng con cháu dòng tộc Phạm Phú tôn tạo lại, và đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.

Tên ông cũng đã được dùng để đặt tên cho hai ngôi trường, đó là: Trường trung học phổ thông Phạm Phú Thứ tại Gò Nổi (Điện Bàn, Quảng Nam), và trường Trung học phổ thông Phạm Phú Thứ tại xã Hòa Sơn (Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng). Ở quận Tân Bình, thuộc thành phố Hồ Chí Minh, cũng có con đường mang tên ông.

Chú thích:
[1] Chép theo Chính biên (tr. 758). Tiến sĩ cập đệ gồm ba thí sinh đỗ cao nhất, nhưng sách này không ghi rõ ông Thứ đã đạt danh hiệu gì.
[2] Trích trong Việt Nam máu lửa quê hương tôi (hồi ký) của Hoàng Linh Đỗ Mậu (nguyên là Thiếu tướng trong quân đội Việt Nam Cộng hòa). Nxb Công an Nhân dân, 1995, tr. 319. Cũng theo tác giả này, phi công Phạm Phú Quốc, người tham gia ném bom dinh Độc Lập năm 1962, thuộc dòng dõi ông Thứ.

Sách tham khảo:
■Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam chính biên liệt truyện (viết tắt là "Chính biên"), truyện: “Phạm Phú Thứ”. Nxb Văn học, 2004.
■Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều sử toát yếu, phần "Chính biên". Nxb Văn học, 2002.
■Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm (toàn tập). Nxb Khoa học xã hội, 2003.
■Nguyễn Kim Hưng, mục từ “Phạm Phú Thứ” in trong Từ điển văn học (bộ mới). Nxb Thế giới, 2004.
■Nhiều người soạn, Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam, mục từ “Phạm Phú Thứ” (bản điện tử) (http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=1607aWQ9MjI0MTgmZ3JvdXBpZD0ma2luZD1zdGFydCZrZXl3b3JkPXA=&page=3)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét