Khoảnh khắc
giao thời giữa hai thế kỷ (XIX và XX) ở vùng Đông Á lúc bấy giờ diễn ra nhiều
sự kiện trọng đại, nhất là ở Nhật và ở Trung Quốc. Vận động duy tân ở Nhật Bản,
bắt đầu tới Minh Trị Thiên hoàng, đưa đến kết quả rực rỡ. Nước Nhật tiến lên
thành một cường quốc, đánh thắng được nước Nga. Cả thế giới, đặc biệt là Đông Á
và Đông Nam Á, thừa nhận là nhờ có duy tân, nước Nhật mới đạt được thành tựu
lớn như vậy. Vận động duy tân ở Trung Quốc, bắt đầu với vua Quang Tự, gặp sự
cản trở của thế lực phong kiến, rồi sự xâu xé của các liệt cường, trải nhiều
biến cố mới đi đến cuộc Cách mạng Tân Hợi. Nhưng chính cuộc vận động này đã dồn
dập xuất hiện rất nhiều tác phẩm lý luận chính trị xã hội, làm cho giới nho sĩ
ở Trung Quốc sực tỉnh, chuyển biến theo đường lối mới, và ảnh hưởng mạnh mẽ đến
các nước ở trong vùng. Cả khu vực Đông Á đang bắt đầu thức tỉnh, trong đó có
Việt Nam.
Riêng
ở đất nước ta, tình hình đầu thế kỷ này cùng đầy biến động. Phong trào Cần
Vương đã bị dập tắt, nhưng tinh thần diệt thù cứu nước vẫn chưa chìm xuống.
Tiếng vang từ các cuộc khởi nghĩa (từ Phan Đình Phùng đến Đề Thám) vẫn còn ảnh
hưởng lớn, vẫn thôi thúc mọi người. Lớp văn thân trước kia, có vai trò chỉ đạo
các cuộc nổi dậy, tuy không còn người lãnh tụ tiêu biểu nữa, song cái chí
nguyện độc lập, tự do, chống bọn xâm lăng của họ vẫn còn đó, còn nung nấu chí nguyện
phục thù. Một số nhà nho kế cận vẫn còn bị hấp dẫn bởi những ngọn cờ quật khởi,
vẫn ước mong được vì “non nước tuốt gươm ra”. Tuy nhiên, đã phảng phất cái quan
niệm nhận thấy rằng những biện pháp đấu tranh: lập căn cứ riêng, cướp thành,
giành đất như các cuộc khởi nghĩa trước đây có lẽ là không ổn. Phải gánh đích
bằng những phương sách khác phải tiến hành cách mạng bằng các hình thức đấu
tranh khác. Thời kỳ bình định cơ bản đã qua rồi, chính quyền thực dân đang
chuyển sang đường lối khai thác, và vì thế mà đất nước này mang thêm những cục
diện mới. Vừa muốn kìm hãm xã hội, nhưng lại cũng vừa cần phải có sự đổi thay
mới hợp với sự điều hành của kẻ cầm quyền. Miền Bắc, miền Trung chưa có bao
nhiêu, nhưng miền Nam đã đổi thay nhiều lắm. Tổ chức quản lý khác việc học hành
phải theo chương trình Pháp, khoa cử bị bỏ, việc đào tạo trước nhất là kiếm
người phục vụ cho bọn thực dân. Việc kinh doanh được mở mang, các đồn điền, nhà
máy bắt đầu phát triển. Khá quan trọng là sự ra đời của những người làm nghề tự
do, và sự tiếp thu văn hoá mới từ phương Tây đưa đến. Bấy nhiêu biến cố đã làm
cho các nhà nho phải nhìn thế cuộc bằng con mắt khác. Rõ ràng là xã hội đang có
cái mới, ngày càng nhiều và phát triển, nhà nho không muốn chấp nhận cái mới ấy
cũng không được. Đúng lúc ấy thì có khuynh hướng duy tân – nhất là từ bên Nhật
đưa sang. Những nhà nho còn dồi dào nhiệt huyết nhất bỗng thấy tăng sức mạnh
cho “giống da vàng đánh bại bọn da trắng”. Vậy là phải duy tân, và có thể bắt
chước hướng duy tân của Nhật Bản. Một số nhà nho mạnh bạo nhất, có ý chí phục
thù quyết liệt nhất, đã thiên về khuynh hướng ấy.
Nếu
tấm gương duy tân Nhật Bản kích thích một bộ phận nhà nho Việt Nam một cách sôi
nổi, thì ở một bộ phận nhà nho khác, tình huống cuộc duy tân Trung Quốc lại có
phần đậm đà hơn. Lý do đơn giản là vì sách báo của Trung Hoa vào Việt Nam dễ
hơn, đọc nhanh và cũng hiểu nhanh hơn. Chưa thấy nói có tác phẩm nào của Nhật
Bản bằng tiếng Nhật được lưu hành ở nước ta, và những hiểu biết về Nhật Bản lúc
đó, cũng chủ yếu bằng phương tiện ngôn ngữ của Trung Quốc. Lúc đó, ở Trung Quốc
tư tưởng duy tân càng thêm sôi nổi. Một loạt tác giả mới, sách báo mới của những
hội nghiên cứu, hội chính trị mới đã ra đời, đều có tính hướng đến Việt Nam.
Tất cả đều nhất loạt hô hào cái mới, lên án Thanh triều hủ bại, đòi bỏ khoa cử,
phủ nhận chế độ phong kiến, đề cao dân chủ, tán thành dân quốc. Các tác phẩm
phương Tây cổ xuý cho tư tưởng dân chủ đều được dịch ra, những tên tuổi mới lạ
được phiên âm thành Hán tự ta trở nên quen thuộc: Mạnh Đức Tư Cưu (Montesquieu),
Lư Thoa (J.J Rousseau), Phúc Lộc Đắc Nhĩ (Voltaire), v.v… Các nhà nho
Việt Nam đã được đọc những sách ấy và hào hứng tiếp thu, trân trọng những kiến
giải mà họ cho là hợp lý nhất, mới nhất và đúng nhất với lịch sử nhân
loại tiến hoá. Họ cảm thấy phải đi theo con đường này, và đó cũng là con đường
cứu nước hiệu nghiệm. Cũng như một số nhà nho trên, lòng yêu nước của họ chưa
hề nguội lạnh, con đường duy tân này cũng là con đường thích hợp mà có phần nào
chưa phải trực tiếp đương đầu với gươm súng của bọn thực dân.
Thế là
hình thành ra hai phái trong công cuộc vận động cứu nước. Một phái chủ trương
giành độc lập trước nhất, phải vũ trang bạo động, nếu sức mình chưa đủ thì tìm
viện trợ ở ngoài. Hoạt động theo hướng này, nếu ở ngay trong nước thì phải tiến
hành một cách bí mật, nếu ở ngoài nước thì hăng hái học tập Nhật Bản và Trung
Quốc, tất nhiên phải đề phòng sự khủng bố truy lùng của địch. Những nhà nho đi
con đường này được xem là nằm trong tổ chức bí mật, gọi là ám xã. Phe
ám xã sang Tàu, nhất là sang Nhật, tức là làm nhiệm vụ Đông du. Còn phe kia,
tiến hành vận động đổi mới ngay trong nước, tìm cách khai thác triệt để những
điều kiện công khai, hô hào nâng cao dân trí, với danh nghĩa là thúc đẩy cho
quần chúng thấy rõ cái hủ bại của đất nước dưới chế độ phong kiến quân chủ.
Việc làm này có thể tiến hành đàng hoàng trước bộ máy chính quyền thực dân và
tay sai. Vì thế, người ta gọi họ là ở trong phái minh xã. Minh xã hay
ám xã, thì vẫn cùng chung mục đích đổi mới đất nước, giải phóng dân tộc.
Trong quá
trình tuyên truyền giải thích chủ trương, có trường hợp các nhà nho trong hai
phái này tranh luận với nhau, thậm chí phản đối nhau kịch liệt, nhưng thật ra
thì họ “tương phản nhi tương thành” (chữ dùng của Huỳnh Thúc Kháng). Dân chúng
không hề nhầm lẫn điều đó, mà vẫn kính trọng, vẫn ủng hộ cả hai với nhiệt tình
ca ngợi và tuân thủ như nhau. Họ đều được xem là những nhà chí sĩ cứu nước. Có
người còn nghĩ rằng, chính các nhà nho phân công nhau, chia việc cho nhau và để
cùng đi tới kết quả. Bản thân hai phái nhà nho này, trong nhiều trường hợp, đã
có cách nói như nhau, đặt vấn đề phục vụ dân tộc như nhau, chứ không hề trái
ngược gì nhau cả.
Hai
ông Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu không nhất trí với nhau về đường lối,
nhưng vẫn là bạn đồng chí, đồng tâm, và phong trào được gọi là Duy Tân
(bao gồm cả Đông Kinh nghĩa thục) cũng có quan hệ với Duy Tân hội và với Quang
Phục hội. Bọn thực dân và tay sai, hiểu rõ điều này hơn ai hết, và đã tìm cách
khủng bố cả hai phái ám xã, minh xã với biện pháp khắc nghiệt như nhau.
Việc
vận động duy tân trong nước chủ yếu là do phái minh xã. Cách tiếp nhận tư tưởng
duy tân của hệ, chủ yếu là bằng tân thư, nghĩa là bằng sách báo ở Trung Quốc, ở
Nhật Bản truyền sang. Có thể nhận ra trong kho sách này những loại tài liệu sau
đây:
1. Loại
sách giới thiệu, thuyết minh về tư tưởng duy tân dân chủ (tân thư). Có những
bộ phận sách tiêu biểu như Đại đồng thư của Khang Hữu Vi, nhất là bộ
sách Ẩm Băng Thất tùng thư của Lương Khải Siêu. Bộ sách này có ảnh
hưởng rất lớn đến các nhà nho Việt Nam. Đọc Trung Quốc hồn, người ta
cảm thấy Lương Khải Siêu không chỉ nói về Trung Quốc mà đang nói về Việt Nam
với tất cả các lạc hậu của xã hội, những hiểm hoạ đối với nòi giống trước tình
hình mới. Quyển sách Mậu Tuất chính biến ký, kể rõ cuộc vận động duy
tân thất bại của Quang Tự, cho thấy được những xáo động lớn lao của Trung Quốc
và đã thôi thúc nho sĩ Việt Nam cần phải kịp thời đổi mới, thấy rõ hơn bộ mặt
và bản chất phản động của chế độ phong kiến quân chủ. Hai tác giả Khang, Lương
trở thành những lý thuyết gia chỉ lối đưa đường cho các nhà nho duy tân.
2.
Cùng với Mậu Tuất chính biến ký, còn có một số sách có tính cách là
những tập vịnh sử, ký sự về tình hình hiện đại của Nhật Bản như Nhật Bản
duy tân tam thập niên sử (bản dịch chữ Hán của La Hiếu Cao), v.v… Tấm
gương duy tân của các nước láng giềng được các sách này vẽ ra trước mắt các nhà
nho, càng tăng thêm hào hứng và quyết tâm đi vào hoạt động.
3.
Nhiều tập sách nêu những tấm gương chiến đấu của các chí sĩ các nhà hoạt động
chính trị, hoạt động cách mạng của toàn thế giới cũng được các nhà nho đón đọc
một cách say sưa. Có tập như Kinh quốc mỹ đàm, nêu gương phụ nữ: Các
bà Qua Đặc (Jeane d’Arc), bà La Lan (Roland); có tập như Cận thế chi quái
kiệt, đề cập đến đủ loại anh hùng, đều là những người anh hùng có công đổi
mới đất nước của họ, dù đó là vua chúa hay tổng thống, giám quốc: Vua
Bỉ Đắc (Pierre le Giand) ở Nga, Hoa Thịnh Đốn (Washington) ở Mỹ, Nã Phá Luân
(Napoléon) ở Pháp, Tỉ Sĩ Mạch (Bismarck) ở Đức v.v… Nhiều sách báo khác cũng
nêu những tấm gương như Mã Chí Nê (Mazzini), Gia Lý Ba Đích (Garibaldi) ở Ý,
như Phúc Trạch Dụ Cát (Fukuzawa Yukichi), Cát Điền Tùng Âm (Yoshida Syoin) ở
Nhật, v.v… Tóm lại, nhà nho Việt Nam lúc này đã được làm quen và sùng
mộ tất cả những nhà ái quốc cổ kim. Tất cả đều được xem là thần tượng và đều
được đưa vào văn chương cổ động Việt Nam: người đọc nếu không hiểu, phải tìm
lấy mà hiểu 1. Thậm chí, có những người lấy ngay tên các thần tượng ấy đặt làm
biệt hiệu của mình. Phan Châu Trinh tự đặt tên mình là Hy Mã (Mã Chí Nề:
Mazzini).
4.
Cùng với loại sách này là những tập sách dịch các luận thuyết của các nhà tư
tưởng thế kỷ XVIII ở phương Tây (có nhiều bản dịch ra Hán văn của nhiều tầng
lớp dịch giả). Được quen thuộc nhất là bộ Vạn pháp tinh lý của Mạnh
Đức Tư Cứu (Esprit aes Lois của Montesquieu), bộ Dân ước của Lư Thoa
(Contrat social của J.J. Rousseau). Rồi những sách của Đạt Nhĩ Văn (Đarwin), Tư
Tân Tắc Nhĩ (Spencer), v.v… Tư tưởng dân chủ trong các lý thuyết này
có giá trị chi đạo rất lớn, và các lý thuyết gia này luôn được ca ngợi. Phan
Bội Châu khi viếng Phan Châu Trinh đã phải viết:
Cậy
Tây học dặn dò phương tự chủ, Lư Thoa, Mạnh Đức so sánh người xưa.
Câu văn ấy đã nói đủ ý tứ sùng mộ của các nhà nho thời ấy.
5. Cuối
cùng, còn phải nhắc đến các báo chí (tân văn) nhất là của Trung Quốc được
truyền sang Việt Nam lúc bấy giờ, đều là tài liệu quý được các nhà nho đón
nhận. Đặc biệt là tờ Dân báo của Trung Quốc Đồng minh do Chương Thái
Viêm làm chủ bút. Cùng với các ông Đàm Tự Đồng, Trâu Dung, Lương Khai Siêu, v.v…
Chương Thái Viêm là một kiện tướng xuất sắc trong trường ngôn luận lúc bấy
giờ.
Cùng
với những loại sách báo này, người ta cùng tìm cách cho lưu hành những văn bản
của những người Việt Nam tiên giác như Các bản điều trần của Nguyễn
Trường Tộ, bản Thiên hạ đại thể luận của Nguyễn Lộ Trạch. Ngoài ra,
khuynh hướng chú trọng về thực nghiệm khiến cho một số nhà nho cũng tìm cách
nghiên cứu một số vấn đề khoa học. Các sách cũ (không thuộc thời kỳ duy tân) ở
Trung Quốc lại được lục ra để tìm hiểu về nhiều lĩnh vực: Sách nông nghiệp như Nông
chính toàn thư, sách thiên văn như Quản khu trắc lệ. Rồi những
sách theo dạng tu tri (toán pháp, cách trí, v.v…) đều được tìm đọc. Đã
nói cách học xưa là học hư văn, thì học mới phải chuyên về thực nghiệp. Điều đó
được các nhà nho nhận thức một cách sâu sắc và cảm động, khiến cho họ phải tìm
cách tự trang bị kiến thức, trong hoàn cảnh giáo dục lúc bấy giờ.
Tiếp
thu tân thư tân văn như vậy, đồng thời các nhà nho minh xã cũng
bắt tay vào hành động. Việc làm của họ tập trung vào một chủ đích lớn là thức
tỉnh đồng bào, cốt nhằm cho nhân dân quần chúng cả nước thấy rõ nguyên nhân vì
đâu mà chúng ta sống trong tình trạng “người ngu, nước yếu “(chữ dùng của Ngô
Đức Kế). Họ trực tiếp đả kích cái học cũ, đầu óc hủ nho và lối văn chương bát
cổ làm mê muội con người. Họ công kích những thói hư tật xấu và lên án chế độ
phong kiến, chế độ quân chủ, nhắc nhở đến lịch sử cha ông, vạch rõ những thảm
cảnh của đất nước lâm vòng nô lệ. Hướng đi của họ là nhằm cổ động cái học
mới (tân học) và cổ động cho thực nghiệp. Để thực hiện cho chủ
trương này, việc làm cụ thể của họ là:
- Mở
các trường học: Các nhà Duy Tân ở Quảng Nam (Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc
Kháng, Trần Quý Cáp) đi đầu trong việc đề xướng khai dân tự với việc mở hàng
loạt trường ở hầu khắp các làng quê của xứ Quảng. Đó là các ngôi trường kiểu
mới của dân tộc đầu thế kỷ trước. Nhưng tiêu biểu hơn cả là trường Đông
Kinh nghĩa thục ở Hà Nội (đã có nhiều tài liệu viết về trường này). Nhà
trường có chương trình đường lối như Văn minh tân học sách, có tổ chức
quy mô thu nhận hàng nghìn học sinh, có nhiều hình thức hấp dẫn: “Buổi diễn
thuyết người đông như hội/ Kỳ bình văn khách tới như mưa“
- Nhà
trường có nhiều tác phẩm xuất sắc được lưu hành, phổ biến ra cả ngoài trường
như những tài liệu tuyên truyền cứu nước. Nhiều địa phương khác trong Nam ngoài
Bắc đã cố gắng phỏng theo mô hình này, dù ở quy mô nhỏ hẹp hơn. – Tổ chức
diễn thuyết ở nhiều nơi, nói về các đề tài liên quan đến vận động học mới,
đả kích tư tưởng, phong tục cổ hủ, đề cao dân chủ dân quyền. Rất nhiều nhà nho
có uy tín (các vị tiến sĩ, cử nhân, tú tài, các ông đốc học, giáo thụ, huấn
đạo) tham gia công việc này, gây một phong trào truyền bá tân học rất sôi nổi.
-
Lập các hội buôn, các nhà hàng để giới thiệu, thông thương các hàng nội
hoá, bán sách tân thư. Cửa hàng Hồng Tân Hưng (nối theo Đông Kinh
nghĩa thục) miền Bắc, cửa hàng Triệu Dương thương quán (Nghệ An), cửa
hàng Liên Thành (miền Nam Trung Bộ),… là những thí dụ.
-
Ngoài những hình thức trên đây, ở một số nơi khác trong nước, còn có những
phong trào đột khởi, cũng do những nhà nho duy tân tiến hành. Khởi đầu, có lẽ
là do sáng kiến của một vài vị thân sĩ nào đó, sau được lớp nhà nho trẻ tuổi
thực hiện một cách ào ạt. Thí dụ như phong trào cắt tóc: cắt cái búi tóc được
xem là một hình thức tiêu biểu cho cái cục hủ cổ truyền của Việt Nam.
Những
hành động như trên, cố nhiên là do sự chỉ đạo, sự thôi thúc của các nhà nho
trong phái minh xã. Nhưng trong phạm vi bí mật, không phải không có tác động
của phái ám xã. Tài liệu học tập ở Đông Kinh nghĩa thục có những thơ văn cổ
động của phái Đông Du được dịch và lưu hành (Hải ngoại huyết thư của
Phan Bội Châu được Lê Đại dịch). Có cả những liên lạc kín đáo giữa phong trào
Đề Thám với trường này. Và ở miền trong, sự thân tình của Phan Bội Châu (lãnh
tụ phái ám xã) cùng các ông Đặng Nguyên Cẩn, Trần Quý Cáp càng chứng
tỏ họ cùng chung mục đích. Bản án kết tội Huỳnh Thúc Kháng, Phan Thúc Duyện,
Nguyễn Thành, Lê Bá Trinh của thực dân, nói rõ là những người này (minh xã)
đã thông đồng với Phan Bội Châu (ám xã).
Rồi như chúng ta đã biết, tất cả thế hệ nhà nho này, từ Nam
chí Bắc, đều bị khủng bố. Hàng trăm nhà nho đều bị đưa ra Côn Đảo giam cầm.
Trong cuộc đàn áp phong trào chống thuế, một số nhà nho cầm đầu đã bị địch tử
hình (Trần Quý Cáp, Trịnh Khắc Lập, Nguyễn Bá Loan…). Huỳnh Thúc Kháng
nói đây là giai đoạn “mạt kiếp của chữ Hán” (Thi tù tùng thoại).
Điều
đặc biệt đáng ghi nhận ở đây là những nhà nho trong phái duy tân, có khá nhiều
là những cây bút văn chương xuất sắc. Họ trung thành với chủ trương đánh thức
đồng bào, bài xích hư văn, hô hào thực nghiệp. Có lẽ lần đầu tiên đất nước Việt
Nam này mới có một chương trình vận động văn hoá có bài bản, có lý luận hẳn
hoi. Trước đây, văn chương và học thuật Việt Nam không đề xuất được một tí lý
luận nào, ngoài cái phương châm “văn dĩ tải đạo” quen thuộc từ bên ngoài đưa
đến. Mãi sau này, vào giữa thế kỷ XX, một vài năm trước Cách mạng tháng Tám năm
1945, Đảng Cộng sản mới đưa ra Đề cương văn hoá, đề xuất lý luận quan
điểm tiến bộ về phương diện này. Vinh dự cho các nhà nho duy tân, cho Đông Kinh
nghĩa thục là đã đưa ra bản Văn minh tân học sách, chỉ rõ được bốn
nguyên nhân kìm hãm văn hoá dân tộc và đề ra sáu phương châm vận động văn hoá
mới. Giờ đây, ta có thể thấy nhiều bất cập trong đường lối chính sách đó, nhưng
đặt vào hoàn cảnh đương thời, thì đó phải xem là một thành tựu lớn trong lịch
sử phát triển văn hoá Việt Nam. Tiếp theo đường lối cơ bản đó là những tác phẩm
có giá trị nhất định cả về văn chương và tư tưởng. Các nhà văn của Đông Kinh
nghĩa thục có rất nhiều sáng kiến biến hoá, sử dụng nhiều thể loại phục vụ mục
đích tuyên truyền giáo dục của mình:
- Họ
viết rất nhiều các bài thơ cổ động, dùng vần điệu lục bát, nhắc nhở quần chúng
về từng nhiệm vụ duy tân cụ thể. Họ có sáng kiến tìm những đầu đề hấp dẫn, khêu
gợi, rất hợp với tâm lý quần chúng. Bài thơ ngắn này là Kêu hồn nước, bài
ca trù gọn nhẹ kia là để hú hồn thanh niên. Rồi những lời mẹ dạy
con, vợ khuyên chồng rất thích hợp với sự tiếp nhận của đại đa số quần
chúng.
- Họ
viết những bài thơ có tính cách chuyên đề, đi hẳn vào những yêu cầu tố cáo thói
hư tật xấu, hoặc hướng dẫn một nhiệm vụ cụ thể, chỉ rõ từng vấn đề thiết cốt
trong nhiệm vụ duy tân. Đây là bản Cáo hủ lậu văn, kia là bản Giác
thế tân thanh, rồi đến những bài Khuyên học quốc ngữ, học chuyên môn,
học công nghệ, học buôn bán. Kia là những bài khuyên đoàn kết, khuyên
hợp quần. Tất cả những gì cần thiết cho sự đổi mới, Đông Kinh nghĩa thục
tiêu đề cập đến một cách gọn gàng, thiết thực.
- Đông
Kinh nghĩa thục là một trường học. Nhà trường phải có tài liệu giáo dục, có
sách giáo khoa. Cũng là lần đầu tiên mà đất nước ta có những bài dạy lịch sử,
địa lý Việt Nam bằng văn chương quốc ngữ. Những tập sách như Quốc dân độc
bản đã được biên soạn và phát hành với số lượng lớn, được quần chúng cả
nước hoan nghênh. Nhiệm vụ duy tân thể hiện bằng phương pháp giáo dục công khai
trước mũi của chính quyền thực dân, phải nói là sáng kiến tài tình và là điều
rất mới trong lịch sử giáo dục. Từ xưa, các nhà nho chỉ biết giáo khoa là Ngũ
kinh Tứ thư quá lắm nữa là các bài giảng về đạo đức, các sách gia huấn
hoặc sách từ vựng chứ đã biết đến những hình thức giáo khoa này đâu. Đó thực sự
là nét duy tân của phong trào, có ý nghĩa lịch sử.
-
Ngoài ra, tài liệu của Đông Kinh nghĩa thục còn là những tài liệu cổ động của
các nhà cách mạng ở nước ngoài, như bản Hải ngoại huyết thư của Phan
Bội Châu, Tỉnh quốc hồn ca của Phan Châu Trinh đã được các thầy giáo
Đông Kinh nghĩa thục cho phổ biến rộng rãi. Còn phải nhắc đến những bài nói
chuyện, bài diễn thuyết của nhiều trí thức, có chân trong phong trào Duy Tân
hay không, đều dược chấp nhận, miễn là góp phần vào sự thức tỉnh quốc dân mà
các chí sĩ duy tân đang thiết tha cổ vũ. Chắc có thể có cả những tài
liệu của các học giả nước ngoài, những loại tân thư của Trung Quốc như trên đã
nói.
Có kế
hoạch tổ chức quy mô như vậy, có trình độ biên soạn, tuyên truyền và huấn luyện
như vậy, điều không đáng ngạc nhiên là Đông Kinh nghĩa thục đã đạt được những
thành công. Chính quyền thực dân nhất định phải e sợ tổ chức của các nhà duy
tân, và đã thành lập những kiểu trường gọi là trường Tân Quy 2 đã tranh giành
ảnh hưởng. Nhưng tranh giành sao được, khi mà những con người do đế quốc thực
dân chỉ định không có lý tưởng duy tân, và nhất là không có được niềm tin của
quần chúng. Bọn cầm quyền chỉ có cách cuối cùng là bóp chết Đông Kinh nghĩa
thục. Nhưng cũng không có cách nào để bóp chết, mà chỉ mượn cớ vu vạ cho các
chí sĩ duy tân đã chỉ đạo phong trào chống thuế, liên lạc với phái ám xã, để
dồn tất cả vào ngục tù, không cho phát huy ảnh hưởng nữa. Đông Kinh nghĩa thục
bị dập tắt, nhưng thành tích của nó là to lớn. Những tác phẩm của nó đã tồn tại
với thời gian, trong đó ngoài những giá trị lịch sử, còn phải nói đến giá trị văn
chương. Một số người như Nguyễn Quyền, Lê Đại, Ngô Quý Siêu,… xứng
đáng là những ngòi bút xuất sắc. Thêm một điểm cũng đáng lưu ý nữa, là với văn
chương của Đông Kinh nghĩa thục, các thể văn như lục bát, song thất lục bát, ca
trù, v.v… được có thêm một giá trị sử dụng hơn. Trước đây, ta chỉ gặp
nó trong những truyện Nôm, những bài ca phong hoa tuyết nguyệt, thì giờ đây, nó
thực sự trở thành văn chương cổ động – điều mà trước đây văn học Việt Nam chưa
biết đến, và sau này các chiến sĩ trong phong trào vận động cách mạng phản đế,
cách mạng vô sản sẽ rút kinh nghiệm để phục vụ chính trị một cách tích cực hơn.
Chỉ
trong một thời gian ngắn ngủi, trên dưới chục năm, những hoạt động của các
chiến sĩ duy tân ở cả ba miền Trung Nam Bắc đã viết nên những trang sử đẹp đẽ
cho đất nước này ở cả hai bình diện chính trị và văn học (nói chung là văn
hóa). Lịch sử Việt Nam ở đầu thế kỷ XX này ghi nhận công lao của họ, và lịch sử
văn hoá cũng phải thừa nhận sự đóng góp của họ là to lớn.
Vấn đề
trước nhất, xứng đáng được tôn vinh là tinh thần yêu nước, nguyện vọng thiết
tha của họ đối với độc lập tự do của xứ sở, với danh dự của dân tộc, của giống
nòi. Nói minh xã hay ám xã thực ra là để cho dễ nhận, dễ phân biệt phạm vi lĩnh
vực hay biện pháp hoạt động mà thôi, chứ thực ra cả hai phái này đều chung mục
đích phấn đấu, cùng chung đối tượng đấu tranh. Giữa một số người lãnh đạo phong
trào, có khi có sự không nhất trí trong cách thức điều hành, trong phương pháp
vận động, nhưng họ vẫn nhận là bạn trong tâm, đồng chí với nhau. Thậm chí có
khi họ kịch liệt phê phán nhau một cách công khai, nhưng chỉ là để cho tiện xử
lý một vài trường hợp cụ thể (như việc Phan Châu Trinh sang Nhật để gặp Phan
Bội Châu), chứ thực ra yêu cầu khôi phục nền độc lập, lật đổ chế độ quân chủ,
đưa nước nhà lên cõi văn minh, vẫn là mục tiêu chung của tất cả những người yêu
nước. “Vấn mục đích, bất vấn thủ đoạn (chữ dùng của Phan Bội Châu) là điều mà
có lẽ tất cả những người được xem là trong phái minh xã hay ám xã đều nhất trí.
Có một sự thực là minh hay ám, chỉ là để gây ấn tượng với kẻ địch mà thôi, chứ
với nhân dân quần chúng thì không hề có sự phân biệt này. Người duy tân hay
người đông du trước dân tộc, trước đồng bào đều là những chí sĩ và chiến sĩ.
Đối với chính quyền thực dân hay với bọn tay sai cũng vậy. Chúng vẫn nhận ra
được: minh hay ám, đều là những người đang gây nguy hiểm cho chúng, và chúng đã
thẳng tay đối phó, không trừ một hành động tàn bạo nào. Nhưng nói như vậy,
không có nghĩa là không thế căn cứ vào những hoạt động cụ thể của các thành
phần chí sĩ đầu thế kỷ XX này để nhận chân những đóng góp của họ đối với quốc
gia dân tộc.
Mặt
khác, bên cạnh những thành tựu rực rỡ của các nhà chí sĩ theo khuynh hướng bạo
động, chúng ta cũng phải định vị cho các chiến sĩ văn hoá trên mặt trận đấu
tranh công khai này. Họ là những chiến sĩ duy tân tiên phong của đất nước, họ
xứng đáng nhận được sự tôn vinh của các thế hệ. Những nhà duy tân đã làm cho
chúng ta được làm quen với văn hoá thế giới, văn hoá khu vực.
Người
Pháp đem văn hoá của họ sang ta, cho đến thời điểm đó đã có đến trên bốn mươi
năm, nhưng ngoài những chương trình đào tạo những kẻ tay sai, những người giúp
việc, nào có giới thiệu cho chúng ta được gì. Phải có các nhà duy tân, chúng ta
mới được làm quen với những lý thuyết mới, những nhân vật mới trên khắp toàn
cầu. Cho đến những thập kỷ 30 trở về sau, thì cái mới theo âu hoá, theo văn
minh tư sản, cũng không phải là những cái mới tiến bộ nhất, phù hợp với cuộc
tiến hoá của lịch sử nhân loại. Công lao của phái duy tân đầu thế kỷ này chính
là ở đó.
Và
cũng chính ở hướng tiến bộ đó, mà các nhà duy tân phát hiện ra được căn bệnh
truyền kiếp loay hoay với cách học từ chương khoa cử, cái căn bệnh hư văn làm
thui chột những tài năng, làm lệch lạc những tâm hồn. Sự “nhiệt thành cáo hủ” ở
đầu thế kỷ này, xét về một mặt nào đó, có giá trị như một cuộc cách mạng. Phải
nhờ có các cuộc duy tân này, mà lớp trí thức – loại ông nghè, ông cống – và cả
đại đa số quốc dân nữa mới hiểu cái câu “thiên ngoại hữu thiên”! Trên cái đà
đổi mới nhận thức này, chúng ta mới thực sự được tiếp xúc nơi khoa học, kỹ
thuật (tuy chỉ là ở bước đầu), và nhất là đối với khuynh hướng thực nghiệp.
Phải nói rằng đây cũng chính là điều mà hàng trăm năm qua, những thức giả Việt
Nam không phải là không biết đến. Dưới các triều đại cũ đã có những học giả
mong muốn thay đổi cách học, thay đổi thể văn. Cả thế kỷ XIX, đã có những nhà
nho “Giật mình khi ở xó nhà, văn chương chữ nghĩa khéo là buồn tênh” (Cao
Bá Quát); đã có những con người tiên giác viết ra những điều trần tâm huyết.
Nhưng tất cả hoặc chìm trong quên lãng, hoặc bị rẻ rúng nghi ngờ, thì đến đây
mới thực sự được các nhà duy tân thức tỉnh. Ưu điểm của phái duy tân là biết
khai thác lòng yêu nước để hướng dẫn vấn đề, biết đi vào quần chúng để vận động.
Đó là cái rất mới trong sự nghiệp vận động văn hoá ở nước ta. Dựa vào lòng yêu
nước, dựa vào lực lượng quần chúng thì có thể thổi những tia le lói thành ngọn
lửa. Đông Kinh nghĩa thục gây được phong trào, tân thư trở thành động lực thôi
thúc quần chúng Nam Ngãi, Nghệ An rồi cả Bắc, Trung, Nam chính là vì lẽ đó.
Và
cũng chính trên cơ sở của khuynh hướng cơ bản đó, mà phái duy tân, đã cùng với
phái bạo động xuất dương viết nên trang sử hiện đại, mở đầu cho thế kỷ XX ở đất
nước này. Cả hai phái đều xứng đáng với quê hương, với dân tộc và trong thực tế
đã gây nên bước chuyển mạnh mẽ trong tiến trình lịch sử và lịch sử văn hoá nước
nhà.
1 Thí dụ
hai câu trong một bài hát nói: Tỉ diện, Cách mi quân đối cánh Qua tình, La tứ
thiếp tân trang Nghĩa là: – Bộ mặt của ông Ti Tư Mạch (Bismarck), lông mày của
ông Cách Lan Tư Đốn (Gladstone), anh nên soi gương. – Tấm tình của bà Qua Đặc
(Jeana d’Ars), tinh thần của bà La Lan (M. Roland), thiếp xin tô điểm theo.
Trong phong trào cố động đương thời, những điển tích ấy trở nên dễ hiểu và rất
được ưa chuộng.
2 Trường
Tân Quy (Học quy tân trường) được toàn quyền Beau ra Nghị định thành lập ngày
24-91907 do Nguyên Tái Tích (anh ruột nhà thơ Tản Đà) làm Hiệu trưởng. Trường
khai giảng ngày 11-11-1907, nhằm “đối trọng” với Đông Kinh nghĩa thục, nhưng số
“sinh viên” đăng ký chưa đầy 50 người. Và chỉ hoạt động được vài tháng thì phải
đóng cửa, trường phải giải thể!
Tôi đang tìm hiểu về vấn đề canh tân, rất may blog này tập hợp được các bài viết liên quan đến chủ đề này. Cám ơn Bloger. Chúc Anh nhiều sức khỏe, hạnh phúc!
Trả lờiXóaLVL