Phan
Châu Trinh, một trong những sĩ phu yêu nước tiêu biểu của phong trào
giải phóng dân tộc ở nước ta vào đầu thế kỷ XX, là người đầu tiên khởi
xướng dân quyền, chủ trương Duy tân đất nước theo con đường “Khai dân
trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” (mở mang dân trí, chấn hưng tinh thần
dân tộc, phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân). Trong bài
viết này, chúng tôi bước đầu tìm hiểu về các hoạt động chủ yếu của ông
trong những năm 1904 - 1905...
Gặp gỡ "Tân thư”...
Phan
Châu Trinh, tên chữ là Tử Cán, hiệu Tây Hồ, biệt hiệu Hy Mã, sinh năm
1872, mất năm 1926, người làng Tây Lộc, huyện Hà Đông, tỉnh Quảng Nam
(nay là thôn Tây Lộc, xã Tam Lộc, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam). Năm
1900, ông đỗ cử nhân cùng khoa với Huỳnh Thúc Kháng và Phan Bội Châu.
Năm 1901, đỗ phó bảng cùng khoa với Ngô Đức Kế và Nguyễn Sinh Huy. Năm
1902, ông làm Thừa biện bộ Lễ tại Huế, bắt đầu tiếp thu tư tưởng dân chủ
tư sản của Rousseau, Montesquieu qua các “tân thư” của Khang Hữu Vi và
Lương Khải Siêu. Có lẽ cũng vào năm này ông đọc được “Thiên hạ đại thế
luận” của Nguyễn Lộ Trạch. “Tân thư” đã gây cho ông những nhận thức mới,
như ông đã viết trong “ Pháp Việt liên hiệp hậu chi tân Việt Nam : “Vì
tôi từ nhỏ đến lớn, từ khi vào học cho đến khi thi đậu, làm quan, không
có ai biết mình, mà cũng không có lúc nào đắc chí (...). Đến ngày kia có
sách mới mà đọc thì thích lắm, nói: “Đây chính là thời hữu dụng của kẻ
ngu cuồng. Ta đem cái chí cuồng ngu của ta, thi hành kiến thức ngu cuồng
của ta, chưa hẳn không ít có ích cho quốc dân”.
Có
thể nói, việc tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản qua “tân thư” là một
bước ngoặt lịch sử trong đời sống hoạt động yêu nước của Phan Châu
Trinh, được xem là “vén mây mù mà thấy trời xanh...”. Qua “các sách mới
dịch của châu Âu”, tư tưởng Duy tân đất nước với các mục tiêu “khai dân
trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” của ông đã từng bước hình thành...
Thử nghiệm “Duy tân” ở Quảng Nam
Năm
1903, Phan Bội Châu từ Nghệ An vào Huế đã tìm gặp Phan Châu Trinh. Cũng
trong năm này, cụ Phan Châu Trinh cùng Phan Bội Châu, Vũ Phương Trứ bàn
chuyện dâng thư lên triều đình nhà Nguyễn xin bỏ khoa cử, nhưng không
thành. Do đọc được cuốn “Lưu cầu huyết lệ thư”, nên Phan Châu Trinh đã
có phần hâm mộ Phan Bội Châu nhưng trong các cuộc đàm đạo “Phan Châu
Trinh kiên quyết bác ý kiến giương ngọn cờ quân chủ để tập hợp nhân dân
đánh Pháp của Phan Bội Châu”. Đây có thể được xem là một báo hiệu của sự
phân hóa thành hai kiến giải khác nhau về con đường cứu nước của hai
phái Đông tu và Duy tân vào những năm sau đó, mặc dù cả hai phái đều có
chung chủ trương là phải kết hợp cứu nước với Duy tân và “mục đích cuối
cùng của họ cũng đều là đẩy người Pháp ra khỏi Đông Dương”.
Năm
1904, hai người bạn tri kỷ của Phan Châu Trinh là Huỳnh Thúc Kháng và
Trần Quý Cáp đều đỗ tiến sĩ. Tuy nhiên, như Huỳnh Thúc Kháng viết trong
“Tiểu sử của Trần Quý Cáp” rằng trong tình hình “cựu học đã hạ màn, tân
học bắt đầu khai diễn”, rồi “cuộc cách mạng Trung Hoa nổi dậy sau cuộc
Mậu Tuất chính biến, Nhật Nga xung đột, ảnh hưởng rất lớn trong nước”
... các ông đều thấy phải "tự gánh trách nhiệm bài xích cử nghiệp, đề
xướng tân học”, “qua cầu dứt cầu không ngó lại nữa”. Huỳnh Thúc Kháng,
Trần Quý Cáp không chịu ra làm quan. Phan Châu Trinh lấy cớ không có
người hương khói cho tổ tiên xin cáo quan, ông về quê rồi cùng với Huỳnh
Thúc Kháng, Trần Quý Cáp tổ chức những cuộc thăm viếng và đàm đạo với
nhiều nhân sĩ trong tỉnh để tìm người đồng tâm. Chủ trương Duy tân đất
nước của các ông được tuyên truyền sâu rộng. Ba ông lên miền nguồn Thu
Bồn, “lên cả vùng Tý, Sé, Kẽm để thức tỉnh miền thượng du tỉnh nhà, vận
động tài chánh cho việc Đông du (?). Lên nguồn Phước Sơn rồi trở xuống
Thạnh Mỹ đặng gặp cụ Tiểu La”. Cũng năm này, người anh em cô cậu của
Phan Châu Trinh ở làng Phú Lâm (Tiên Phước) là Lê Cơ đã vận động nhân
dân trong làng đóng góp tiền để xây dựng trường tân học và góp cổ phần
để lập hiệu buôn tạp hóa với tên gọi là Thương hội bình dân. Cuộc vận
động Duy tân được dấy lên ở Quảng Nam và chủ trương khai trí, trị sinh
của Phan Châu Trinh từng bước được thực hiện.
Cuộc “Nam du” tìm bạn đồng tâm, mở rộng phong trào
Đám tang cụ Phan Châu Trinh. Ảnh: Tư liệu.
|
Trong
“Pháp Việt liên hiệp hậu chi tân Việt Nam”, Phan Châu Trinh cho rằng
cho đến trước phong trào chống thuế 1908 bùng nổ, ông và các đồng chí
của ông đã làm được các việc: đưa thư chính phủ Pháp để công kích quan
Nam, lập hội buôn, lập trường tiểu học phổ thông ở hương thôn, lập hội
tân học, lập hội diễn thuyết, lập hội trồng cây, lập hội cắt tóc mặc áo
ngắn và “lập mà chưa thành” các hội khác như hội cải lương tơ tằm, hội
cải lương vải Nam... Song đây là những thành quả sau khi phong trào Duy
tân đã lan rộng ra Trung và Bắc vào những năm 1906-1907. Còn vào thời
điểm năm 1904, thì phong trào Duy tân chỉ mới được thử nghiệm ở Quảng
Nam như đã đề cập ở trên.
Theo Phan Châu Trinh, để
làm được việc lớn cần phải khuấy động cả nước, hình thành một phong
trào rộng khắp Bắc, Trung, Nam, vì vậy ông đã cùng hai đồng chí, hai
người bạn tri kỷ của mình quyết định đi xa một chuyến nhằm để biết thêm
nhân tâm, sĩ khí, tìm bạn đồng tâm và mở rộng phong trào. Ba ông chọn
các tỉnh phía Nam làm hướng hành trình cho chuyến đi. Tháng 2-1905, Phan
Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp bắt đầu chuyến “Nam du”.
Trên đường “Nam du” các ông đã dừng lại ở những nơi đô hội để vận động
Duy tân và gây ra được những “tiếng nổ mạnh” với âm hưởng lâu dài, đặc
biệt là sự kiện được Huỳnh Thúc Kháng thuật lại trong “Tây Hồ tiên sinh
lịch sử” : Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp cùng nhau nộp
quyển vào trường thi tại Bình Định nhằm lợi dụng khảo hạch để đánh một
tiếng chuông cảnh tỉnh đám sĩ phu
Cả bài thơ, bài
phú đều ký tên là Đào Mộng Giác (nghĩa là “anh chàng họ Đào tỉnh
mộng”). Bài thơ của Phan Châu Trinh đã chỉ trích sĩ phu say mê bát cổ,
không nghĩ đến cái nhục mất nước, cái nhục nô lệ và như vậy không biết
ngày nào mới “tháo cũi sổ lồng”. Bài phú cũng là một áng văn chương hay,
tập trung phê phán bệnh khoa cử, tả nỗi khổ của nhân dân và cảnh nhục
nhã của sĩ phu trước sự áp bức của giặc.
Ngay sau
khi gây “một tiếng sét đánh” trên, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng,
Trần Quý Cáp phải nhanh chóng... rời Bình Định. Vào Nha Trang, ba ông
đến cảng Cam Ranh xem hạm đội Nga do đô đốc Jonquieres chỉ huy vừa vào
cảng xin đồn trú, rồi lại tiếp tục lên đường vào Phan Thiết. Tại Phan
Thiết, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp kết giao với các
sĩ phu yêu nước ở đây như Nguyễn Quý Anh, Nguyễn Trọng Lội, Trương Gia
Mô, Hồ Tá Bang. Sau đó, Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp về lại Quảng
Nam. Riêng Phan Châu Trinh còn lưu lại Phan Thiết mấy tháng sau, vừa
dưỡng bệnh vừa tiếp tục bàn với các sĩ phu ở đây về việc tổ chức các
hoạt động “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” như “lập thơ xã,
giảng sách mới, lập thanh niên thể dục để dạy thanh niên theo tinh thần
mới và lập các hội kinh tài để lấy huê lợi giúp học sinh”. Theo hướng
của Phan Châu Trinh, tháng 5-1906, “Liên Thành thơ xã” ra đời; ngày
6-6-1906 “Liên Thành thương quán” khánh thành và năm 1908, “Dục Thanh
học hiệu” mở cửa ở Phan Thiết...
Về Phan Châu
Trinh, tháng 9-1905, ông rời Phan Thiết trở lại Quảng Nam, kết thúc
chuyến “Nam du” dài ngày. Trên đường trở về, có một sự kiện đáng được
lưu ý là Phan Châu Trinh dừng lại Quảng Ngãi, vận động Lê Khiết tham gia
phong trào Duy tân. Qua vận động của Phan Châu Trinh, Lê Khiết từ một
thuộc hạ của Nguyễn Thân trở thành một “tân nhân vật” và hy sinh trong
phong trào chống thuế năm 1908.
BÙI XUÂN
http://baoquangnam.com.vn/nh%C3%A2n-v%E1%BA%ADt/5100-hanh-trinh-tu-tan-thu-duy-tan-den-nam-du.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét