Sực tỉnh trông ra ngỡ sáng lòa,
Đêm sao đêm mãi thế ru mà?
(Tú Xương, “Đêm dài”, đầu thế kỷ XX)
Khoảng
một trăm năm trước, khi tại các quầy rượu, quán cà-phê ở những thành
phố tiêu biểu cho văn hóa Tây phương vào cuối thế kỷ XIX như Paris,
Vienne, Berlin, khách văn nhân nghệ sĩ gặp nhau đàm luận về những tư
trào trong văn học nghệ thuật Tây phương lúc bấy giờ như “nghệ thuật vị
nghệ thuật” (l’art pour l’art), chủ nghĩa duy mỹ (aestheticism) hay
trường phái tự chiêm ngưỡng (narcissism), thì ở xứ Đông Dương xa xôi bên
kia nửa vòng trái đất, nước ta hãy còn im lìm trong giấc nồng của đêm
dài mất nước và ngay cả cái tên Việt Nam vẫn chưa được mấy ai nghe biết
đến. Ngọn lửa Cần Vương kháng chiến cuối cùng ở Vũ Quang do Phan Đình
Phùng lãnh đạo cũng đã bị dẹp tắt (1896). Dưới chính sách của toàn
quyền Paul Doumer là triệt để khai thác nhân lực cùng tài nguyên của xứ
thuộc địa này nhằm phục vụ tối đa cho quyền lợi của mẫu quốc, từ 1902 -
năm ở Hà Nội người Pháp rầm rộ làm lễ khánh thành cầu Doumer (tức cầu
Long Biên sau này) - Đông Dương bắt đầu mang lại những lợi lộc kinh tế
và tài chánh cho nước Pháp trong khi tuyệt đại đa số người Việt phải
chịu cảnh tôi đò ngay chính trên quê hương của họ. Về sau, khi viết hồi
ký Doumer đã kiêu hãnh ghi lại như sau: “Khi Pháp mới đến Đông Dương,
nước An Nam đã chín muồi trong tình cảnh nô lệ”!
Trong
hoàn cảnh đất nước bi đát như thế, Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh là
hai sĩ phu, hai bậc đại hào kiệt đi hàng đầu trong vận động giành lại
độc lập dân tộc vào giai đoạn giao thời 25 năm đầu thế kỷ XX. Tuy cùng
chung hoài bão cứu nước, lập trường của hai nhà chí sĩ họ Phan trên một
số vấn đề căn bản của đất nước lại rất khác nhau, thậm chí có khi tương
phản. Trong nhiều năm gần đây, sau nhiều lần đọc lại các trước tác của
hai nhận vật kiệt hiệt này, chúng tôi nhận thấy có nhiều kinh nghiệm
của người xưa - thành công cũng như thất bại - vẫn còn ý nghĩa cho đến
ngày nay.
Trong
khuôn khổ bài viết này, ta hãy thử nhìn lại vị trí và đánh giá vai trò
của Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh trong hành trình dân tộc vào thế
kỷ XX.
“Gọi hồn nước”
Vào
những năm đầu thế kỷ XX, làn sóng duy tân từ Nhật Bản dội sang nước ta
qua những "tân thư" (sách mới) và "tân văn" (báo mới" của Lương Khải
Siêu cùng các nhà cải lương Trung Quốc khác. Những trang sách "tân thư"
"tân văn" mang đến cho các sĩ phu yêu nước không khí rạo rực của cuộc
Minh Trị Duy tân ở Nhật Bản và khí thế sôi sục của Mậu Tuất Chính biến
(1898) ở Trung Quốc. Sĩ phu Việt Nam lần đầu tiên nghe đến các học
thuyết dân chủ, dân quyền, chủ nghĩa lập hiến và làm quen với các tên
nghe lạ tai như Mạnh-đức-tư-cưu (Montesquieu), Lư-thoa (Rousseau),
Phúc-lộc-đặc-nhĩ (Voltaire), v.v... Từ chỗ "ếch ngồi đáy giếng thấy bao
nhiêu trời", họ bắt đầu có tầm nhìn "doanh hoàn" (toàn cầu) - dĩ nhiên
điều này không có nghĩa là ai ai nay cũng có thể nhìn một cách khách
quan về đất nước hay về thế giới bên ngoài. Quan điểm cạnh tranh sinh
tồn, mạnh được yếu thua (survival of the fittest) qua thuyết tiến hóa xã
hội (social Darwinism) của Dật-nhĩ-văn (Darwin) mà ngày đó hãy còn gọi
là thuyết "vật cạnh" (vạn vật cạnh tranh để sinh tồn), "thiên diễn
luận" (sự tiến hóa tự nhiên của sự vật) hay thuyết "tự do đào thải",
khiến họ ý thức sâu sắc hơn về hiểm họa mất nước.
Phan
Bội Châu về sau đã ghi lại trong tự truyện: "Tôi vì xem những pho sách
ấy mới hiểu qua được tình hình cạnh tranh ở trong hoàn hải, thảm trạng
đất nước diệt chủng lại càng kích thích trong đầu sâu sắc hơn"[1].
Nỗi lo diệt chủng cũng được nhắc nhở trong bài "Đề tỉnh quốc dân ca"
(không rõ tên tác giả) lưu truyền rộng rãi trong nước vào năm 1906:
Nỗi diệt chủng bề thương bề sợ
Nòi giống ta biết có còn không?
Trong
hàng ngũ các sĩ phu yêu nước vào đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu có lẽ là
người đã đóng vai trò quan trọng nhất trong việc thức tỉnh hồn nước.
Thơ văn Phan Bội Châu có ảnh hưởng sâu rộng đối với người đọc không chỉ
vì những dòng thơ Phan mang nhạc điệu trầm hùng thiết tha, khi rạo rực
sôi nổi, mà cũng vì những gì Phan nói lên thường khơi dậy nỗi nhục mất
nước và kích động những cảm xúc sâu xa của tình tự dân tộc. Những câu
sau đây ngày ngay đọc đến ta vẫn thấy xao xuyến trong lòng, huống hồ là
đối với độc giả sống trong tình trạng "mất nước" vào đầu thế kỷ XX:
Lời huyết lệ gửi về trong nước,
Kể tháng ngày chửa được bao lâu
Nhác trông phong cảnh Thần châu,
Gió mây phẳng lặng dạ sầu ngẩn ngơ...
Hồn cố quốc vẩn vơ vơ vẩn,
Khôn tìm đường dò nhắn hỏi han
Bâng khuâng đỉnh núi chân ngàn,
Khói tuôn khí uất, sóng cuồn trận đau...
("Hải hoại huyết thư" (1906), Lê Đại dịch)
Hoặc giả:
Than ôi! Lục tỉnh Nam Kỳ
Nghìn năm cơ nghiệp còn gì hay không
Mịt mù một giải non song
Hỏi ai, ai có đau lòng chăng ai...
("Ai cáo Nam kỳ phụ lão" (1907), Phan Bội Châu tự dịch)
Trong
bài "Sinh văn cụ Phan Sào Nam" (1940), Huỳnh Thúc Kháng đã diễn tả một
cách sống động về sức rung cảm lòng người của ngòi bút Phan Bội Châu:
Miệng giọng cuốc vạch trời kêu giật một,
giữa từng không mù cuốn mây tan,
Tay ngòi lông vỗ án múa chầu ba, đầy mặt
giấy mưa tuôn sấm nổ.
Núi cao reo bốn phía dậy vang,
Buồng kín tỉnh ngàn năm giấc ngủ [2]
Do
ảnh hưởng văn thơ của Phan Bội Châu, mà "hàng nghìn thanh niên đã cắt
cụt tóc bím, vất hết sách vở văn chương cử tử cùng cái mộng công danh
nhục nhã gắn trên đó, lìa bỏ làng mạc, nhà cửa vợ con, rồi băng ngàn lội
suối, bất chấp mọi nỗi đói thiếu, nguy hiểm, khổ sở, để qua Xiêm, qua
Tàu, qua Nhật mà học hỏi và trù tính việc đánh Tây" [3].
Ngoài ra, cũng cần để ý là ảnh hưởng của Phan Bội Châu không chỉ giới
hạn trong những thế hệ trưởng thành trong nửa đầu thế kỷ XX, mà ngay cả
trong thời gian "đất nước phân kỳ", bất luận Nam Bắc, văn thơ Phan đã
khơi dậy lòng yêu nước của không biết bao nhiêu thanh niên.
Ý thức "Quốc gia Quốc dân"
So
với người cùng thời, Phan Bội Châu sớm ý thức về vận mệnh đất nước và
cũng là một trong những sĩ phu đầu tiên đối đầu với các vấn đề liên hệ
đến Việt Nam như một "quốc gia quốc dân" (nation-state).
Vì
từ "quốc gia quốc dân" (hay "nhà nước quốc dân") vẫn chưa được nhắc
đến ngay trong các cuốn từ điển tiếng Việt, Anh Việt hay Pháp Việt,
v.v... xuất bản gần đây (những năm cuối cùng của thế kỷ XX!), ta thử
tạm mượn định nghĩa của từ này trong một cuốn từ điển tiếng Nhật Bản -
một ngôn ngữ có nhiều từ vựng hiện đại "xuất cảng" sang chữ Hán và
tiếng Việt vào buổi đầu thế kỷ XX.
Trích:
Kokumin kokka ("Quốc-gia quốc-dân", hay "nhà nước quốc dân"): một quốc gia thống nhất được hình thành dựa trên cơ sở của ý thức về sự đồng nhất của quốc dân, hay dân tộc (Nihongo daijiten [Nhật-Bản-ngữ đại-từ-điển], Tokyo: Kôdansha, 1989, trang 691).
Kokumin kokka ("Quốc-gia quốc-dân", hay "nhà nước quốc dân"): một quốc gia thống nhất được hình thành dựa trên cơ sở của ý thức về sự đồng nhất của quốc dân, hay dân tộc (Nihongo daijiten [Nhật-Bản-ngữ đại-từ-điển], Tokyo: Kôdansha, 1989, trang 691).
Ngay
từ hồi chưa xuất dương, Phan đã từng đi chu du nhiều nơi trong nước -
miền Nam xứ Nghệ (quê Phan) từ Huế vào Nam Ngãi, Bình Phú, rồi Gia
Định, cho đến tận vùng Thất Sơn ở Châu Đốc; miền Bắc từ Nam Định, Hà
Nội, lên tận rừng Yên Thế của Đề Thám - nhằm tìm cách kết giao đặng mưu
đồ việc nước với những người có nghĩa khí, từ sĩ phu tới các "hảo hán"
trong giới "lục lâm giang hồ" sống ngoài vòng pháp luật. Trong thời kỳ
Đông Du (1905-1909), hàng ngày tiếp xuvs và lo việc ăn học cho các
thành viên từ Nam chí Bắc, Phan ý thức sâu sắc về tình trạng thiếu đồng
thuận giữa người Việt với nhau do một lý do khá đơn giản: đây là lần
đầu tiên các thanh niên này có dịp tiếp xúc, đối thoại và sinh hoạt với
nhau. Trong Việt nam quốc sử khảo (1908), Phan nêu lên 5 điều khiếm
khuyết trong dân trí nước ta: hay nghi kỵ lẫn nhau, coi trọng những
điều xa hoa vô ích (như trong việc hôn nhân, cúng bái, v.v ...), biết
lợi mình chứ không biết hợp quần, tiếc của riêng mà không nghĩ đến lợi
chung, biết thân mình mà không nghĩ đến việc nước [4]. Ý
thức "quốc gia quốc dân" trong tư tưởng cũng như hành động của Phan
phải nói là một sự đề kháng đối với chính sách "chia để trị" của chính
quyền đô hộ, khác hẳng với đầu óc địa phương hẹp hòi thường thấy ngay ở
các nhân vật tai to mặt lớn trong nước lúc bấy giờ. Bình tình mà nói,
bệnh chia rẽ, óc địa phương không chỉ do chính sách cai trị của người
nước ngoài, bởi lẽ ngay khi người Việt nắm lấy vận mệnh đất nước, vẫn
không thấy những biện pháp tích cực nhằm khắc phục tư tưởng cục bộ "ăn
cây nào, rào cây ấy" hay tình trạng "phép vua thua lệ làng". Đóng góp
của Phan trên mặt này ngay từ hồi đầu thế kỷ đúng là một điểm son đáng
trân trọng, cần được ghi nhớ.
Cũng
cần để ý rằng "vong quốc" (mất nước), "đồng bệnh" (cùng bệnh) và
"quang phục" (khôi phục vinh quang đã mất) là những từ thông dụng trong
thuật ngữ chính trị ở Trung Quốc, Hàn Quốc và Việt Nam - ba nước "cùng
mang bện mất nước" - vào đầu thế kỷ XX. "Vong quốc" ở đây có nghĩa là
mất độc lập, mất chủ quyền. Phan Bội Châu giải thích: "Gọi là một nước
thì phải có nhân dân, có đất đai, có chủ quyền. Thiếu một trong ba cái
ấy đều không đủ tư cách làm một nước" [5]. Bởi vậy không phải ngẫu
nhiên mã những nỗ lực khôi phục độc lập ở ba nước Đông Á nói trên
thường lấy tên "quang phục": vận động lật đổ triều đình Mãn Thanh ở
Trung Quốc do Thái Nguyên Bồi khởi xướng năm 1904 lấy tên là Quang phục
Hội (về sau gia nhập Đồng minh Hội của Tôn Dật Tiên); ngày Hàn Quốc
lấy lại độc lập, thoát khỏi ách cai trị của người Nhật gọi là ngày
Kwangbok (tức Quang Phục, 15/8/1945); và cái tên Việt Nam Quang phục
Hội do Phan Bội Châu cùng các đồng chí thành lập ở Quảng Đông (1912)
cũng không ngoài nghĩa đó.
Việt Nam - Từ Quân chủ tới Dân chủ
Ai
là người đầu tiên phổ biến cái tên Việt Nam vào đầu thế kỷ XX? Trả lời
câu hỏi thoạt nhìn có vẻ vô-thưởng-vô-phạt này sẽ giúp ta nhận thức rõ
hơn về vai trò của Phan Bội Châu và Quang phục Hội.
Quốc
hiệu "Việt Nam" nguyên đã có từ đầu thời vua Gia Long, nhưng trên thực
tế không mấy khi được sử dụng. Sử sách chép là vua Gia Long lúc đầu
khi mới lên ngôi (1802) muốn đặc quốc hiệu là Nam Việt, nhưng vua Gia
Khánh nhà Thanh không chấp thuận, lý do là quốc hiệu này khơi lại
chuyện Triệu Đà và chính quyền cát cứ ở nước Nam Việt đời Hán ngày
trước. Thanh triều chỉ chấp thuận sai sứ sang phong vương sau đó hai
năm (1804) khi quốc hiệu Nam Việt đã được đổi ngược lại thành Việt Nam [6].
Bước sang thế kỷ XX, trong khi người nước ngoài đều dùng tên "An Nam"
để chỉ nước ta, theo thiển ý của chúng tôi, Phan Bội Châu là người đầu
tiên đã phổ biến cái tên Việt Nam ngay từ khi mới sang Nhật Bản. Bằng
cớ là Phan đã dùng tên Việt Nam trong các trước tác viết trong thời kỳ
Đông Du: Việt Nam vong quốc sử (1905), Tân Việt Nam (1906), Việt Nam
thảm trạng (1907?), Việt Nam quốc sử khảo (1908). Ngoài ra, sau khi giải
tán Duy Tân Hội, như đã nói ở trên, Phan cùng đồng chí cũng đã dùng
tên Việt Nam (thay vì An Nam hay các tên khác) khi đặt tên Việt Nam
Quang phục Hội vào năm 1912.
Tuy
Quang phục Hội có một lịch sử đáng chú ý, nhưng điều ngạc nhiên là
trước đây ít người nói tới. Những điều giới thiệu sau đây có thể tìm
thấy ngay trong "Phan Bội Châu niên biểu" (hay "Tự phán") chứ không phải
tìm đâu xa xôi. Trước hết, Quang phục Hội không chỉ là hội đoàn theo
nghĩa thông thường mà trên hết thực tế là một "chính phủ lâm thời" (lưu
vong), có quy định cả quốc kỳ, quân đội (Việt Nam Quang phục Quân),
quân kỳ, và phát hành cả giấy bạc (dưới dạng "quân dụng phiếu") "in
bằng điện, tinh xảo như giấy bạc Tàu". Quang phục Hội cũng đã quy định
lá quốc kỳ đầu tiên của Việt Nam. Theo lời kể lại của Phan Bội Châu,
"một sự quái lại" là trước đó "nước ta chỉ có cờ hoàng đế mà không có
quốc kỳ". Bởi vậy, Quang phục Hội mới "chế định cờ ngũ tinh" (năm ngôi
sao) làm lá quốc kỳ đầu tiên. Năm ngôi sao trên lá cờ này có hình liên
kết với nhau (ngũ tinh liên châu), tiêu biểu cho ba kỳ của Việt Nam,
cộng thêm Lào và Cămpuchia (!). Quốc kỳ Quang phục Hội có nền vàng,
tượng trưng cho nhân chủng da vàng của người Việt, màu hồng của năm
ngôi sao biểu tượng cho vị trí phương Nam của nước Việt ("Nam phương
thuộc hỏa, hỏa sắc hồng"). Hình dạng quân kỳ cũng giống như quốc kỳ,
điểm khác nhau là thay vì hồng tinh (sao hồng), quân kỳ dùng bạch tinh
(sao trắng), nhằm "tỏ rõ mục đích" của Việt Nam Quang phục Quân là "cốt
đánh đổ chính phủ người da trắng".
Tôn
chỉ "độc nhất" của Quang phục Hội là "khôi phục nền độc lập của Việt
Nam" và thành lập một nước "cộng hòa dân quốc". Nói một cách khác, với
sự thành lập của Quang phục Hội, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam chủ
nghĩa quân chủ đã bị phủ nhận và chủ nghĩa dân chủ "được xác định". Dĩ
nhiên Phan Bội Châu đã đóng vai trò quan trọng trong sự chuyển hướng
đường lối của Quang phục Hội [7]. Cho dù việc thay đổi "ngọn cờ quân
chủ" (mà Phan Bội Châu đã đề cao để chống Pháp lúc xuất dương) thành lá
cờ dân chủ phần nhiều là do ảnh hưởng của Cách mạng Tân Hợi (1911) ở
Trung Quốc, nhưng trong bối cảnh lịch sử nửa đầu thế kỷ XX ở Việt Nam,
sự kiện này có ý nghĩa như một khúc nhạc dạo đầu báo hiệu sự cáo chung
của chế độ quân chủ ở nước ta mà trên thực tế sẽ xảy ra trong quá trình
ba, bốn mươi năm sau đó.
"Bạo động kịch liệt" và bế tắc
Khác
hẳn với chủ trương ôn hòa của Phan Châu Trinh là duy tân để tự cường
rồi mới dành độc lập; Phan Bội Châu chủ trương bạo động, một phần vì bản
tính ("sinh bình tôi vốn ôm chủ nghĩa cấp khích" [8]) và một phần do áp lực của "bọn anh em trong phái cấp khích ở Nghệ Tĩnh... hối thúc tôi trong việc quân giới" [9].
Lật
đổ chính quyền thuộc địa Pháp bằng phương tiện võ trang (quân sự), đối
với Phan, là phương cách duy nhất để lấy lại độc lập cho Việt Nam. Tuy
nhiên, Phan cho rằng người Việt tự mình không địch nổi người Pháp, do
đó phải cậy vào một cường quốc khác. Sở dĩ Phan và các đồng chí trong
Duy Tân Hội chọn Nhật Bản để cầu viện vì Nhật là nước "đồng văn đồng
chủng" mà lại vừa mới thắng Nga. Sau khi bị nhà đương cuộc Nhật trục
xuất khỏi Nhật, Phan chuyển hướng, muốn liên kết với các nước "đồng
bệnh" - trước hết là Trung Quốc - chống lại "cường quyền". Tuy nhiên,
suốt đời Phan không rời chủ nghĩa Liên Á (Asianism), tin rằng nếu không
có sự giúp đỡ của các nước "đồng văn đồng chủng" như Trung Quốc, Nhật
Bản... thì Việt Nam không thể nào lấy lại độc lập.
Phan Châu Trinh (1872-1926)
Ông
là nhà cách mạng xã hội, có tư tưởng dân chủ đầu tiên, là nhà văn hóa,
một nhân cách lớn. Phan Châu Trinh là một tấm gương sáng trong phong
trào Duy Tân đầu thế kỷ 20. Ông là một nhà nho yêu nước có nhiều suy
nghĩ tiến bộ. Có thể xem ông là người có tư tưởng dân chủ sớm nhất trong
số các nhà nho yêu nước tiến bộ đầu thế kỷ.
Đặc
biệt hơn nữa, ông chọn con đường dấn thân tranh đấu nhưng ôn hòa, bất
bạo động. Ông coi dân chủ cấp bách hơn độc lập và coi việc dùng luật
pháp, cai trị quy củ có thể quét sạch hủ bại phong kiến.
Với
tinh thần yêu nước nồng nàn, suốt đời gắn bó với vận mệnh đất nước,
với cuộc sống sôi nổi, gian khó và thanh bạch, ông xứng đáng để hậu thế
ngưỡng mộ, noi theo ngày hôm nay...
Nhận
thức về quan hệ quốc tế của Phan vừa lỗi thời vừa rất chủ quan. Có thể
nói một trong những lý do khiến Phan thất bại là vì mặc dầu đứng trong
tư thế người lãnh đạo một phong trào chống Pháp, Phan không bao giờ có
ý định tìm hiểu về người Pháp và nước Pháp. Theo phương châm ngày xưa
"kẻ thù của địch là bạn ta", Phan ngỏ ý cầu viện một cách bừa bãi với
các nước mà Phan coi là có quyền lợi xung đột với Pháp lúc bấy giờ:
Đức, Nga, và đặc biệt là Trung Quốc và Nhật Bản. Phan cả tin và chủ
quan về những "nước bạn", rồi với trạng thái tâm lý được diễn tả và
châm biếm qua câu ca dao "Thương thì thương cả đường đi, ghét thì ghét
cả tông chi họ hàng" (hoặc "Thương thì trái ấu cũng tròn, không thương
trái bồ hòn cũng méo"), Phan tưởng rằng những "nước bạn" sẽ là những
đồng minh muôn thuở, bất luận trong tình huống nào và vô hình trung cho
rằng "Pháp là nước duy nhất có ý đồ xâm chiếm Việt Nam". Vì Phan hoạt
động trong giai đoạn mà ý thức hệ (hệ tư tưởng) chính trị chưa chia
phối hàng ngũ người Việt trong nước cũng như hải ngoại, nên mặc dầu
những thuật ngữ Phan dùng có thể khác những thuật ngữ của các thế hệ
sau, nhưng phải nói trạng thái tâm lý nói trên vẫn thể hiện đậm nét
trong quan niệm đối ngoại của Việt Nam ít ra mãi cho đến gần đây.
Chủ
trương bạo động của Phan Bội Châu tùy thời điểm có mức độ khác nhau.
Chẳng hạn, sau khi sang Nhật để xin viện trợ quân sự chống lại Pháp,
Phan gặp Lương Khải Siêu, và sau khi nghe lời khuyên chí tình của họ
Lương, Phan mới chuyển hướng sang việc gửi thanh niên sang Nhật du học.
Qua bút đàm, Lương khuyên Phan: "Quý quốc chớ lo không có ngày độc lập,
mà chỉ nên lo quốc dân không có đủ tư cách độc lập... Thực lực của quý
quốc là dân trí, dân khí và nhân tài". Mặc dầu thời kỳ Đông Du là
khoảng thời gian mà chính Phan xem là "đắc ý" nhất trong đời, Phan vẫn
còn vương vấn với khuynh hướng "bạo động" nên cũng không hết lòng tin
tưởng vào vai trò của giáo dục. Phan mượn câu nói của Mã-Chí-Nê
(Mazzini) làm chủ thuyết của mình: "Giáo dục dữ bạo động đồng thời tịnh
hành" (Giáo dục và bạo động cùng tiến hành song song) [10].
Sau khi bị trục xuất khỏi Nhật (1909), bôn ba sang Xiêm, rồi cuối cùng
trở về Quảng Đông thành lập Quang phục Hội (1912), Phan chủ trương
"bạo động kịch liệt" nhằm "tìm cái sống trong muôn vạn cái chết" và
những mong bạo động sẽ là "môi giới để cải lương giáo dục"!
NCS Phạm Thị Thuýhttp://vns.hnue.edu.vn/?page=service_detail&TID=224
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét